HIỆN TƯỢNG “HÁN VĂN” MINH DI( 瞑羠)
Thưa quý vị,
Thời gian vừa qua, Trong hai bài viết mà tôi đã đưa lên Net: NGU NHÌ KHEN NGU NHẤT- và - TRẦN PHONG VŨ – CĂN BỆNH MÃN TÍNH “ẤU TRĨ, THỜ Ơ, U TỐI”! Là để chứng minh chữ “THI”, lời Khổng Tử mà anh Trần phong Vũ, đã đồng tình với anh Nguyễn chí Thiện đưa ra trong câu:
“Khổng Tử có lời luận về thơ như sau: “Thi khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ hưng, khả dĩ oán”, nghĩa là thơ có khả năng giúp ta nhìn nhận, biết tập hợp, biết hưng khởi, biết oán giận. Suốt cuộc đời làm thơ, lúc nào tôi cũng theo tôn chỉ: “Quan, quần, hưng, oán” đó, vì tôi nghĩ nó tóm tắt khá đủ về chức năng của thơ. Nhưng do năng lực giới hạn, thơ tôi chưa đạt được bốn tiêu chuẩn trên….(Nguyễn chí Thiện- Lời Nói Đầu- Hoa Địa Ngục tập 2 (Hạt Máu Thơ) Trang VI.”
Cho rằng, chữ “THI” đó, là “THƠ (dạng văn vần)” là hoàn toàn sai! Vì câu đó là một câu trong Luận Ngữ, và chữ THI đó, là Khổng Tử nói về KINH THI!
Và tôi dẫn chứng bằng chữ Hán như sau:
“「子曰:“小子何漠學扶詩。詩,可以興,可以觀,可以群,可以怨。邇之事父,遠之事君;多識于鳥獸草木之名。”( 論語、陽貨篇、九章。)」
「Tử viết: "Tiểu tử hà mạc học phù ‘Thi’ . ‘Thi’, khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán. Nhĩ chi sự phụ, viễn chi sự quân; đa thức vu (ư) điểu thú thảo mộc chi danh”. (Luận ngữ- Dương Hoá Thiên- Cửu Chương).」
[Nguyên bản chữ VU (于), nhưng được dùng như nghĩa chữ Ư (於)]
Giải nghĩa:“Khổng Tử nói: “Tại sao các trò không học (KINH) THI. (KINH) THI có thể phát huy chí khí, có thể quan sát phong tục, trời đất, vạn vật (hưng thịnh – suy vong), có thể hiểu được sự cần thiết của đoàn kết- hỗ trợ, có thể giúp người dân điều hướng chính quyền (Vua-Quan) ngày càng sáng (tiến bộ) hơn (oán giận, kêu oan là hình thức cảnh tỉnh chính quyền). Trước mắt biết thảo hiếu Cha Mẹ, sau này có thể phụng sự nhà vua; lại còn biết thêm tên của muôn loài chim muông, cây cỏ nữa.” (Luận Ngữ- Thiên Dương Hóa- Chương 9)”
Sau đó, có bài viết của một người mang tên Minh Di, đã “chỉ trích” tôi (BN 587) viết sai “một” chữ (Hán) và có đoạn dịch không đúng về câu luận ngữ của Khổng Tử!
Tôi (BN 587) không hề biết anh Minh Di này là ai, nhưng qua lời giời thiệu của anh Lý trung Tín, người chuyển bài cho anh Minh Di (không trực tiếp chuyển bài lên yahoogroups) là “anh Minh Di, đặc biệt về lãnh vực Hán Văn”. Lời giới thiệu khá “nổi cộm”!
Thưa quý vị,
Như đã nói ở trên, tôi không biết anh Minh Di là ai? Có nghĩa tôi chưa hiểu về con người, trình độ, kiến thức, năng lực…… của anh Minh Di này thế nào.
Do vậy, tôi phải tìm hiểu, và bằng cách nào: Văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình! Văn tức là người!............
Dù rằng ngay bài đầu tiên, anh Minh Di “chỉ trích” tôi. Tôi đã hiểu được phần nào về con người anh ta. Nhưng cần phải đo lường thêm (cho chắc ăn), nên tôi đã viết đối đáp với anh ta (Minh Di) vài bài. Và cuối cùng tôi đã hiểu đúng như sự suy nghĩ của tôi từ đầu!
1- Một Minh Di có cái đầu “u tối”:
Mời quý vị xem lời anh Minh Di viết:
“2/. Anh viết:
“Mong anh Lý trung Tín phải trung thực mà mắng anh Minh Di dùm tôi như sau: Mới có một vài đoạn email ngắn, trong một hai ngày, mà mày (Minh Di) cũng không nhớ mà nắm vững vấn đề, viết “vu khống” cho BN 587 như thế, thì mày (Minh Di) mới chính là “người tráo trở”, “và sau nữa da mặt của”mày (Minh Di)” chừng như cũng dày lắm!”. và đó là lối viết “lưu manh”, viết cẩn thận đừng làm mất mặt tao (Tín). Nghe Minh Di!”.
Anh chủ quán Quán Nổ Im Re Đặng Đình Thúy đã mất bình tĩnh rồi đó! – Đã bắt đầu mày tao chi tớ rồi đó!
Tôi có thể hình dung ra được lúc này đầu anh bốc hơi, mắt anh mờ, và tay anh rung như người mắc bịnh Parkinson, toàn thân anh vật vã như lên cơn kinh phong!
Tôi khuyên anh, coi chừng, giận quá không phải mất khôn đâu, mà bị stroke đó!
………. (Minh Di viết – bài trong attach file)”
Đoạn trên, những dòng chữ màu tím là anh Minh Di trích lại lời tôi. Để dẫn chứng rằng tôi đã xưng “mày tao chi tớ” với anh Minh Di, và “rủa” tôi (BN587) thậm tệ: “đầu anh (BN 587) bốc hơi, mắt anh mờ, và tay anh rung như người mắc bịnh Parkinson, toàn thân anh vật vã như lên cơn kinh phong! (Minh Di viết)”
Thưa quý vị, đoạn văn màu tím trên, là tôi diễn tả “tự đặt” cảnh “đối thoại” giữa anh Minh Di và anh Lý trung Tín. Và tôi đặt tình trạng hai người là bạn, xưng hô “mày, tao” với nhau là tình thân, chuyện bình thường. Nhưng anh Minh Di lại cho là tôi đã “mày tao” với anh ta (Minh Di).
Đọc tiếng Việt thôi mà đã không hiểu, thì nói chi đến “chiều sâu” Kinh Thi, Luân Ngữ. Có cách chi để đánh giá đầu anh Minh Di là không “u tối”!
2- Một Minh Di “ngu muội”!
Anh Minh Di viết:
“Anh nói “Anh Minh Di à, thường bạn bè “dạy” nhau”.
Anh lại nhận vơ rồi, ai bạn bè với anh? Mà tôi cũng chẳng dám làm bạn với anh đâu! Đừng có nhận vơ! (Minh Di viết – bài trong attach file)”
Đoạn trích trên, chữ màu tím là lời tôi (BN 587). Và anh Minh Di cho là tôi muốn “nhận vơ” làm bạn với anh Minh Di.
Mời quý vị đọc lại đoạn văn lời tôi liên quan đến câu:“Anh Minh Di à, thường bạn bè “dạy” nhau”. Như sau:
“Mong anh Lý trung Tín mắng anh Minh Di dùm tôi rằng: “BN 587 ở tù Cộng Sản 21(năm), thì lấy đâu ra sách đọc. BN 587 đã nói đúng sự thật. Và có nghĩa BN 587 đã thiệt đi mất 21để trau dồi kiến thức đấy. Sao mày (Minh Di) lại hiểu “ngu” thành BN 587 không bao giờ đọc sách như thế, chán thật.”
Anh Minh Di à, thường bạn bè “dạy” nhau thì cũng đỡ tự ái, do đó tôi mới nhờ anh Lý Trung Tín là vậy, mong anh Minh Di thông cảm. …. (BN 587 viết – bài trong attach file)”
Câu: “Anh Minh Di à, thường bạn bè “dạy” nhau thì cũng đỡ tự ái, do đó tôi mới nhờ anh Lý Trung Tín là vậy, mong anh Minh Di thông cảm.”! Là hoàn toàn xác định ý: Tôi (BN 587) nhờ anh Lý trung Tín “dạy” anh Minh Di dựa vào tính cách hai người là bạn với nhau (Tín là bạn của Di). Chứ tôi không hề muốn là “bạn” với anh Minh Di.
Thưa quý vị, chắc hẳn anh Minh Di “mát dây” quá nặng rồi, nên với đoạn văn tiếng Việt đơn sơ như thế mà cũng hiểu sai, thì nói chi đến Kinh Thi, Luận Ngữ. Có cách chi để đánh giá anh Minh Di là không “ngu muội”!
3- Một Minh Di “ngớ ngẩn”, “tâm thần”:
Thưa quý vị, khi tôi yêu cầu anh Minh Di, dịch đoạn luân ngữ của Khổng Tử, hai lần anh Minh Di đều trốn tránh bằng lời như sau:
Mới đây anh Minh Di trả lời:
“3/. Anh yêu cầu tôi dịch lại đoạn văn của Khổng Tử,
Tôi đã dịch quá rõ rồi, anh cứ ráp những đoạn tôi đã dịch thì biết tôi dịch như thế nào!..(Minh Di viết - bài trong attach file)”
Và trước kia anh Minh Di trả lời:
“ Tôi đã phân câu nói của Khổng Tử ra mấy đoạn mà dịch, để cho độc giả dễ nắm bắt, cứ ráp lại thì hiểu rõ tôi dịch như thế nào! (Minh Di viết- bài trong attach file)”
Thưa quý vị, có ai cho rằng những lời giải thích dông dài, hầm bà lằng của anh Minh Di (xem các bài anh Minh Di đã viết) gom lại với nhau cả trang là lời dịch cho một câu Luận Ngữ (chữ Hán) có hai dòng không? Chưa kể, thực tế anh Minh Di chỉ có lời để giải thích về hai câu:
“1/. Khả dĩ hưng. 2/. Khả dĩ oán……(Xem bài Minh Di viết trong attach file)”, mà anh Minh Di cho rằng tôi đã “dịch” sai!
Vậy trọn câu là:
“Tử viết: "Tiểu tử hà mạc học phù ‘Thi’ . ‘Thi’, khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán. Nhĩ chi sự phụ, viễn chi sự quân; đa thức ư điểu thú thảo mộc chi danh”.
Trừ phần chữ màu tím, Còn lại, có nghĩa những phần chữ “màu đen” là dịch giống tôi sao? Đúng là một Minh Di “ngớ ngẩn”.
Chính lối trả lời nêu trên của anh Minh Di, là một chứng minh cụ thể: Anh Minh Di hoàn toàn không hiểu nghĩa chữ “dịch”, và cung cách “dịch” một câu Hán Văn là thế nào! Anh Minh Di đã trốn tránh “không dám dịch” câu luận ngữ này, hay đúng hơn không có khả năng dịch. Dù rằng tôi đã cho “câu mẫu” dịch của dịch giả Nguyễn hiến Lê.
Cùng bất cứ một người bình thường nào cũng phải hiểu, ráp nối các câu lại với nhau cho mạch lạc, các từ tiếp nối giữa các câu….. đâu phải dễ. Không khéo là sai ý tưởng của mình, nên một khi anh Minh Di nhờ thiên hạ, hay tôi (người mà anh Minh Di đang chỉ trích) thì quả “đúng” là một Minh Di “ngớ ngẩn, tầm thần”, phải không thưa quý vị.
4- Một Minh Di “hoang tưởng, điên rồ” (viết mà chẳng biết mình viết gì!):
Quý vị xem anh Minh Di viết:
“ Tôi nói thêm một lần nữa cho tất cả mọi người trên các diễn đàn đều nghe:
~ Đoạn dịch câu nói của Khổng Tử anh Đặng Đình Thúy dịch sai bét sai be!
….. (Minh Di viết – bài trong attach file)”
Thưa quý vị,
Không hiểu nặn ở đâu ra “loại” người Minh Di hoàn toàn “u tối”, “ngu muội”, “ngớ ngẩn”…. đọc câu văn tiêng Việt còn chưa hiểu đúng nghĩa, như tôi đã chứng minh cụ thể ở phần trên. Nay tự nhiên “nổi chứng điên” “hét” cho “các diễn đàn đều nghe”, là tôi dịch sai.
Vậy tôi cũng:
“ Tôi (BN 587) nói thêm một lần nữa cho tất cả mọi người trên các diễn đàn đều nghe:
Thưa quý vị, Minh Di là “cái đinh rỉ” ở đâu ra đấy, tiếng Việt thì không thông, không biết lý luận, chữ Hán* thì viết sai. Chỉ cóp nhặt tư tưởng của người khác, không dám dịch câu Luận ngữ của Khỗng Tử. Thì thử hỏi “cái đinh rỉ” Minh Di có giá trị gì mà “hoang tưởng, điên rồ” đòi “khẳng định” đánh giá người khác dịch sai hay đúng!
* Tôi sẽ chứng minh anh Minh Di viết chữ Hán sai ở phần dưới.
Đúng là “đinh rỉ” Minh Di “điên rồ” nặng, mời quý vị xem, phần anh Minh Di nói tôi sai là chữ màu xanh (cứ tạm cho là đúng):
“Tử viết: "Tiểu tử hà mạc học phù ‘Thi’ . ‘Thi’, khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán. Nhĩ chi sự phụ, viễn chi sự quân; đa thức ư điểu thú thảo mộc chi danh”.
Vậy trọn phần còn lại, chữ màu đen là anh Minh Di đồng tình với tôi. Thử hỏi, trong quý vị, có ai cho như thế là “sai bét sai be!” không?
Thưa quý vị, có lẽ anh Minh Di phải nên viết lại là:
“ Tôi (Minh Di) nói thêm một lần nữa cho tất cả mọi người trên các diễn đàn đều nghe:
~ Tôi dây là Minh Di, “hoang tưởng, điên rồ” rồi, mọi người trên diễn đàn có biết không!”
5- Một Minh Di “lưu manh, không biết lý luận”:
Thưa quý vị, tôi đã yêu cầu : “Anh Minh Di kể cả anh Lý trung Tín nữa, hãy chứng minh cho tôi biết đoạn nào (copy lên) tôi viết là “không lấy phần dịch của Nguyễn hiến Lê”. Nếu không chứng minh được, thì từ nay tôi sẽ gọi anh là Minh Di “lưu manh”!
Nhưng anh Minh Di cũng vẫn không trả lời được. Vậy, từ nay tôi có quyền gọi anh ta là “Minh Di lưu manh”! (làm thế để sáng tỏ vần đề thôi, chứ gọi làm gì cho bẩn miệng.)
Thực tế, anh Minh Di không hề biết lý luận, mà chỉ nói láo, mời quý vị xem lời anh Minh Di viết:
“Tới bữa nay thì quí vị thấy ai tráo trở, lưu manh. Trong một bài trước đây Đặng Đình Thúy nói rằng mình không lấy phần dịch của Nguyễn Lê, bữa nay lại nói “Anh Minh Di nghĩ dịch giả Nguyễn hiến Lê không tham khảo sách trước khi dịch Luân Ngữ sao?” .Thế không phải là tráo trở chứ là gì?....(Minh Di viết – bài trong attach file)”
Lời này cho dù tôi “lấy” hay “không lấy phần dịch” của Nguyễn Lê”, thì cũng hoàn toàn không mâu thuẫn, về lời tôi đã nói: “Anh Minh Di nghĩ dịch giả Nguyễn hiến Lê không tham khảo sách trước khi dịch Luân Ngữ sao?” .
Vì lời đó chỉ “hàm ý” cho anh Minh Di biết, đừng có “láo toét, mỉa mai” coi thường dịch giả Nguyễn hiến Lê.
Nên một khi, anh Minh Di cho đó: Là tôi đã mâu thuẫn với tôi, để lợi dụng vào đó, cho tôi là “tráo trở, lưu manh”. Thưa quý vị, làm như thế, chính anh Minh Di mới là kẻ “lưu manh” đấy!
6- Một Minh Di “hợm hĩnh, thiển cận”:
Mời quý vị xem anh Minh Di viết:
“Còn câu anh nói “không đúng với tôi” là anh nổ, anh thì biết cái gì mà dám lạm bàn đúng với sai của Cổ văn Trung Quốc?..........
(Minh Di viết- bài trong attach file)”
Đúng là một câu “hợm hĩnh, thiển cận” coi thường thiên hạ. Vậy, cũng thử hỏi:
“Anh Minh Di là cái “thá” gì mà “độc quyền” không cho tôi lạm bàn đúng với sai của Cổ văn Trung Quốc?..........
Anh Minh Di chỉ có cách trả lời duy nhất: Tôi (Minh Di) là một tên “hợm hĩnh, thiển cận” nên mới “ngu” đòi quyền “ độc quyền”đấy!
Đọc các sách đã viết về Kinh Thi, Luận Ngữ thì có được phép bàn không? Với một cái “đầu” Minh Di “u tối, ngu muội, ngớ ngẩn, tâm thần, hoang tưởng ….”, mà tôi đã cụ thể chứng minh, thì có đọc cho “cố”, cũng chỉ là cái tủ “mục” đựng sách thôi, phải không, thưa quý vị!
Chưa kể, một khi anh Minh Di viết đưa lên diễn đàn, là để quý vị thẩm định (đọc và cân nhắc) tôi hay Minh Di “đúng, sai”? Một khi quý vị đã “đọc và cân nhắc” dù bằng “suy nghĩ”, thì đó cũng là “hành vi” cùng nhau đang “lạm bàn” về Cổ văn Trung Quốc đấy. Vậy, không biết anh Minh Di đã “bí mật” cho quý vị cái gì, mà quý vị lại được “lạm bàn”, còn tôi thì không?
Đúng là một Minh Di “hợm hĩnh, thiển cận” hết chỗ nói.
……………………………
Thưa quý vị, nếu viết thêm thì còn nhiều lắm, nhưng thiển nghĩ tạm đôi điều nêu trên, cũng đủ chứng minh:
Một Minh Di “bầy nhầy, bạc nhạc”, rỗng tuyếch về tư tưởng, chẳng biết lý luận, không nhậy bén và tiếng Việt không “thông”…….!
Lẽ dĩ nhiên, Với một con người Minh Di “dở hơi” như vậy! Có cần thiết chấp nhắt những lời của anh ta (Minh Di) nói nữa không? Thiết tưởng là không!
Nhưng vì muốn sáng tỏ vần đề, nên đành tạm mượn lời của anh ta (Minh Di), như là đề mục để trình tự trình bày đến quý vị.
Thưa quý vị,
Trước hết, mời xem lời phê bình thứ nhất của anh Minh Di về tôi.
Anh Minh Di viết:
“Ông BN 587 viết:
Mời quý vị xem nguyên văn lời của Khổng Tử trong Luận Ngữ:
「子曰:“小子何漠學扶詩。詩,可以興,可以觀,可以群,可以怨。邇之事父,遠之事君;多識于鳥獸草木之名。”( 論語、陽貨篇、九章。)」
「Tử viết: "Tiểu tử hà mạc học phù ‘Thi’ . ‘Thi’, khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán. Nhĩ chi sự phụ, viễn chi sự quân; đa thức vu (ư) điểu thú thảo mộc chi danh”. (Luận ngữ- Dương Hoá Thiên- Cửu Chương).」
[Nguyên bản chữ VU (于), nhưng được dùng như nghĩa chữ Ư (於)]
Giải nghĩa:
“Khổng Tử nói: “Tại sao các trò không học (KINH) THI. (KINH) THI có thể phát huy chí khí, có thể quan sát phong tục, trời đất, vạn vật (hưng thịnh – suy vong), có thể hiểu được sự cần thiết của đoàn kết- hỗ trợ, có thể giúp người dân điều hướng chính quyền (Vua-Quan) ngày càng sáng (tiến bộ) hơn (oán giận, kêu oan là hình thức cảnh tỉnh chính quyền). Trước mắt biết thảo hiếu Cha Mẹ, sau này có thể phụng sự nhà vua; lại còn biết thêm tên của muôn loài chim muông, cây cỏ nữa.” (Luận Ngữ- Thiên Dương Hóa- Chương 9)”.
Những cái sai trong đoạn trên:
(1). Sai về Hán tự.
“Chữ “MẠC” trong câu “Tiểu tử hà mạc học phù Thi” viết sai. Chữ “MẠC” ở đây không có bộ “Thủy”.
Nếu biết chữ Hán thực sự thì không bao giờ viết chữ “MẠC” với bộ “Thủy” như vậy.
Một người thực sự thông Hán văn thì biết chữ “mạc” này viết không có bộ “Thủy” – có nhắm mắt viết cũng trúng! (Minh Di viết – Bài trong attach file)”
Thưa quý vị,
Đọc lời “chỉ trích” của anh Minh Di xong. Tôi thật sự thất vọng với lời giới thiệu của anh Lý trung Tín: “anh Minh Di, đặc biệt về lãnh vực Hán Văn”, hẳn có nghĩa “anh Minh Di, thực sự thông thạo Hán Văn” !
Vậy xin thưa rằng:
- Một là: “Một người thực sự thông thạo Hán văn” thì phải hiểu, việc viết lại (từ sự thuộc lòng, hay nhìn vào trang sách….) về một câu (đoạn) văn đã có sẵn (luận ngữ, kinh thi…), lỡ viết một, hai chữ sai, không phải là quan trọng cho lắm. Nếu chữ đó không làm đảo lộn (sai nghĩa) toàn bộ câu văn! [Gia thoại về Nhà văn Kim Dung, chuyên viết chuyện Võ thuật, chưởng lực …. viết sai chữ (“dư”, “thiếu” bộ thủ, hay nét chữ) là thường, và người sửa chẳng ai khác mà lại là thợ sắp chữ đấy.] chính anh minh di có viết chữ hán bao giờ đâu, mà Minh Di chỉ là viết âm chữ hán
- Hai nữa: “Một người thực sự thông thạo Hán văn”, như anh Minh Di, nhưng chưa bao giờ viết chữ Hán “gốc tượng hình…” trong các bài đối đáp với tôi (không kể phần anh Minh Di copy lại chữ Hán của tôi), mà chỉ toàn là viết chữ Hán âm tiếng Việt. Thì cũng phải biết “sờ” lại “gáy” mình (Minh Di) mà bỏ thói “hung hăng” “có nhắm mắt viết cũng trúng”, bởi toàn bộ câu Luận Ngữ đó, tôi viết âm Hán Việt “hoàn toàn” đúng. Nếu tôi cũng viết “gian manh” không dùng chữ Hán “tượng hình…” để chứng minh cụ thể, thì lấy đâu anh Minh Di biết tôi viết sai. Không biết ơn sự quang minh chính đại của tôi, đi mỉa mai như thế, chỉ chứng tỏ một “Minh Di vô văn hóa”!
- Ba nữa: “Một người thực sự thông thạo Hán văn” mà lại dùng chữ “có nhắm mắt viết cũng trúng!” đúng là “ngạo mạn ấu trĩ” thật. Viết sai là “viết sai”, chẳng ăn nhập gì đến việc nhắm mắt mà viết cả! Tôi viết sai đó, nhưng nếu nói kiểu “ngạo mạn, ấu trĩ” như anh Minh Di, thì tôi đây, bây giờ: “Nhắm mắt cũng “chắc chắn” 100% viết đúng cả câu, chứ đừng nói một chữ”.
Việc viết sai chữ Hán, hay chữ Việt là thường, “chỉ trích” thì cũng là việc đúng, nhưng đừng có mà quan trọng thái quá. Gay gắt với lời “có nhắm mắt viết cũng trúng!” chỉ thể hiện lên cái tính “tiểu nhân, kèn cựa” của kẻ tầm thường, còn đâu cái giá trị của một “anh Minh Di, đặc biệt về lãnh vực Hán Văn” nữa! Thưa quý vị,
Lời xưa có câu: “Cười người hôm trước, hôm sau người cười”, “gậy ông, đâp lưng ông”, chắc anh Minh Di đã quên điều này mất rồi. Anh Minh Di cũng viết sai chữ Hán đấy.
Trước khi chứng minh, mời quý vị xem cách chấm diểm viết chính tả chữ “tàu” của ông thày dạy chúng tôi.
Tôi học chữ “Tàu” giọng (phát âm) “quan thoại” (còn gọi là giọng Bắc Kinh, sau này gọi là giọng phổ thông)!
“Ông thày dạy”, chúng tôi gọi là “lão sư”, mỗi lần viết “ám tả”, lão sư đọc cho dãy bàn bên phải, viết một bài nội dung này, thì lại đọc cho dãy bàn bên trái, viết một bài với nội dung khác. Sau đó, hai dãy bàn đổi bài cho nhau, để tự chúng tôi (học trò) chấm bài (bắt lỗi viết sai chữ) cho nhau. Xong, viết tên mình (người chấm -bắt lỗi) vào dưới tên bạn mình (người viết ám tả). Rồi tất cả đem nộp cho lão sư chấm lại. Nhưng lão sư có một quy định rất nghiêm ngặt là: Nếu Lão sư thấy trò A (người bắt lỗi) chấm bài cho trò B (người viết ám tả), mà trong bài trò B vẫn còn một chữ sai không thấy trò A khoanh tròn (dấu ám chỉ chữ sai), thì lỗi sai đó tuy của trò B, nhưng cũng được cộng vào bài ám tả của trò A thêm một lỗi sai nữa.
Chúng tôi (học trò), khởi đầu cũng lên tiếng phản đối. Lỗi ở bài ám tả của ai thì người ấy chịu, sao lại người chấm cũng phải chịu lỗi.
Lão sư trả lời (đại ý): Khi trò A thấy chữ sai của trò B mà lại không biết là sai. Có nghĩa trò A cũng sẽ viết chữ (sai) đó sai như thế. Nên đương nhiên trò A cũng phải nhận thêm một lỗi chứ.
Đó là cách thức, viết một bài mà thành hai ( một bài tự mình viết, và một bài mình chấm cho bài của bạn). Lão sư nói, làm như thế chúng tôi (học trò) sẽ tiến triển rất nhanh.
Nói tóm lại: Với Lão Sư, khi có chữ viết sai, mà mình (ngưòi chấm) không thấy sai, thì cũng chính là mình đã viết SAI.
Trở lại vấn đề chính, anh Minh Di đã “bới lông tìm vết (chấm)” ở câu Luận Ngữ lời Khổng Tử mà tôi viết ra, không phải nói, thưa quý vị, hẳn ai cũng biết là rất “cẩn thận”, rất “tỉ mỉ” để tìm ra chữ tôi viết sai. Và cuối cùng anh Minh Di “huyênh hoang” là “có nhắm mắt viết cũng trúng!” chữ “mạc: 莫” không có chấm thủy mà tôi lại viết sai thành chữ “mạc:漠” có chấm thủy!
Và mới đây anh Minh Di còn đay nghiến tiếp:
“Tôi không hỏi anh về Từ điển nữa vì tôi biết rõ anh có khỉ gì đâu mà hỏi nữa! Thấy anh viết chữ “mạc” mà bất cứ người học chữ Hán nào nhắm mắt cũng không viết sai trong khi anh lại viết sai, cho nên tôi mới hỏi, hỏi cho có hỏi chứ thực ra cứ nhìn cái sai này ai cũng có thể nhìn ra trình độ anh tới đâu rồi! Sao anh chậm hiểu đến thế!
………………………………….
Từ đây thì cái chữ “mạc” trong 2 chữ “hà mạc” nó theo anh suốt đời, nó ở trong đầu không biết là bao nhiêu người, nhắc tới anh là người ta nhắc tới cái chữ “mạc” có Bộ Thủy nổi tiếng của anh!
……………………………
Đọc chữ “mạc” có bộ thủy của anh trong tiếng “hà mạc” mà thiên hạ đến toát mồ hôi, chỉ có anh là cái mặt cứ nhơn nhơn ra tưởng mình nhất thiên hạ!
(Minh Di viết- bài trong attach file)”
Và như vậy, anh Minh Di “chấm bài” không còn thấy chữ nào viết sai nữa. Đồng nghĩa anh Minh Di cũng sẽ viết trọn câu Luận Ngữ đó như vậy!
Nhưng, thưa quý vị, có lẽ anh Minh Di nhắm măt viết đúng chữ “mạc: 莫” không bộ thuỷ, đến khi mở mắt thì anh Minh Di lại viết sai chữ “phù:扶”
“「子曰:“小子何漠學扶詩。詩,可以興,可以觀,可以群,可以怨。邇之事父,遠之事君;多識于鳥獸草木之名。”( 論語、陽貨篇、九章。)」
「Tử viết: "Tiểu tử hà mạc học phù ‘Thi’ . ‘Thi’, khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán. Nhĩ chi sự phụ, viễn chi sự quân; đa thức vu (ư) điểu thú thảo mộc chi danh”. (Luận ngữ- Dương Hoá Thiên- Cửu Chương).」
(BN 587 viết – bài trong attach file)”
Chữ phù ở đây, phải là chữ “phù: 夫” bộ đại (大), chứ không phải là chữ “phù:扶” bộ thủ (手). Theo quy định chấm lỗi viết của lão sư chúng tôi (như đã trình bày trên), thì “anh Minh Di, đặc biệt về lãnh vực Hán Văn”, đã viết sai chữ “phù”.
Vậy, chúng ta cũng nên chỉnh lại đôi dòng mà anh Minh Di đã viết “hung hăng con bọ xít” cho tôi, gọi là “gậy Minh Di đập lại lưng “anh Minh Di, đặc biệt vềlãnh vực Hán Văn”, để anh Minh Di được thấm thía hơn, phải không thưa quý vị.
“……………..
Thấy “anh Minh Di, đặc biệt về lãnh vực Hán Văn”, viết chữ “phù” mà bất cứ người học chữ Hán nào nhắm mắt cũng không viết sai, trong khi anh Minh Di “mở mắt” lại viết sai,
……………
cứ nhìn cái sai chữ “phù:扶”có bộ thủ (手) này, ai cũng có thể nhìn ra trình độ “anh Minh Di, đặc biệt về lãnh vực Hán Văn” tới đâu rồi! Sao “anh Minh Di, đặc biệt về lãnh vực Hán Văn” chậm hiểu đến thế!
…………………..
Từ đây thì cái chữ “phù” trong “học phù “thi”” nó theo “anh Minh Di, đặc biệt về lãnh vực Hán Văn” suốt đời, nó ở trong đầu không biết là bao nhiêu người, nhắc tới “anh Minh Di, đặc biệt về lãnh vực Hán Văn”, là người ta nhắc tới cái chữ “phù:扶” có bộ thủ (手) nổi tiếng của “anh Minh Di, đặc biệt về lãnh vực Hán Văn”.
………………..
Đọc chữ “phù:扶” có bộ thủ (手) của “anh Minh Di, đặc biệt về lãnh vực Hán Văn” trong tiếng “học phù “thi”” mà thiên hạ đến toát mồ hôi, chỉ có “anh Minh Di, đặc biệt về lãnh vực Hán Văn” là cái mặt cứ nhơn nhơn ra tưởng mình nhất thiên hạ!
Thưa quý vị,
Về phần viết chữ Hán, đủ để thấy tỏ tường một “anh Minh Di, đặc biệt về lãnh vực Hán Văn” , chỉ là cái “đặc biệt” của kẻ “điếc hay ngóng, ngọng hay nói” mà thôi!
Giờ đây, mời quý vị cùng tôi, xét đến phần dịch (nghĩa chữ) xem anh “điếc hay ngóng, ngọng hay nói” “Minh Di, đặc biệt về lãnh vực Hán Văn” này, viết gì:
Anh Minh Di viết:
“1/. Khả dĩ hưng.
BN 587 dịch câu “khả dĩ hưng” là “(KINH) THI có thể phát huy chí khí” thì đây là dịch hàm hồ! Chí khí ra làm sao, tốt, xấu?....(Minh Di viết – bài trong attach file)”
Qua trên, là khẳng định anh Minh Di đã hỏi: Chí khí ra làm sao, tốt, xấu?
Thưa quý vị,
Quý vị có thể tin được một “anh Minh Di, đặc biệt về lãnh vực Hán Văn” , lại chưa hề nhìn thấy cái “cục” “chí khí” bao giờ sao? Nên anh Minh Di cũng không biết cái “cục” “chí khí” ấy: Tốt hay Xấu!
Chắc từ điển “tàu” của anh Minh Di không có chữ “chí khí”, nên anh Minh Di mới không biết nghĩa chữ “chí khí” là gì, thật tội nghiệp cho anh Minh Di quá: Chữ Việt thì đọc viết còn chưa thông, ấy thế, hễ mở miệng là phải từ điển “Tàu”.
Mời quý vị xem nghĩa chữ “Chí Khí”, trong Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh:
Chí khí (志氣): Mục đích mình đi là chí, nghị lực mình tới là khí.
Và từ điển tiếng Việt của Nguyễn như Ý:
Chí khí dt. Chí lớn và sự khảng khái, không chịu khuất phục trước sức mạnh hoặc trở ngại: Người có chí khí, chí khí hơn người.
Qua hai cách định nghĩa chữ “chí khí” nêu trên, hẳn quý vị đã thấy, một khi anh Minh Di vặn hỏi: Chí khí ra làm sao, tốt, xấu?. Là đủ để chứng tỏ một Minh Di vừa “ngu” lại vừa “dốt”.
“Chí khí” chính là phẩm chất cao quý! Nên không dễ gì mấy người tầm thường có (thực hiện) được, chẳng hạn như anh Minh Di. Do vậy, đến giờ phút này, không biết anh Minh Di bao nhiêu tuổi, nhưng chắc chắn từ “cửa” miệng chưa bao giờ có hai chữ “chí khí”, do đó mới hỏi: Chí khí ra làm sao, tốt, xấu?. Thật là, quá “xỉ nhục” cho cái “bảng hiệu”:
“anh Minh Di, đặc biệt về lãnh vực Hán Văn”!
Thưa quý vị, anh Minh Di đã tự chứng minh không hiểu nghĩa chữ “chí khí”, thì hà có gì anh ta (Minh Di) nói tôi sai. Đúng là “anh Minh Di, đặc biệt về lãnh vực Hán Văn”, chỉ là một tên “ngớ ngẩn, hàm hồ” .
Thực ra, lời Luận Ngữ của Khổng Tử đó, chỉ nhằm khuyên học trò (đệ tử, người đời…) hãy “đọc”, “học” Kinh Thi để thấy được mối liên hệ mật thiết giữa con người và xã hội thời đó, nhằm rút ra “triết lý” nhân sinh “hưng, quan, quần, oán” toát ra từ Kinh Thi mà thôi.
Nên, lời dịch cũng tùy theo quan niệm của từng người, sau khi đã đọc qua các nhận định của các người (học giả) khác, mà dịch cái “hàm ý” trong câu Luận ngữ đó.
Mời quý vị đọc lời của học giả Nguyễn hiến Lê, để thấy cái “trăn trở” trong nỗi lòng của người dịch:
(Trích ………………….
BẢN DỊCH CỦA CHÚNG TÔI
Chúng ta đã có được ba bốn bản dịch Luận ngữ. Bản đầu tiên tôi được biết là bản của cụ Lương Văn Can, mỏng khoảng trăm trang trở lại, chỉ lựa một số bài để dạy học trò; bản này không kiếm được, ngay cả trong thư viện cũng không chắc còn; hai bản gần đây nhất, nhiều gia đình còn giữ là bản của Đoàn Trung Còn in lần đầu ở Sài Gòn năm 1954, và bản của Lê Phục Thiện, gồm ba tập, xuất bản ở Sài Gòn từ năm 1962 đến năm 1967.
Mấy bản đó đều công phu cả, có nguyên văn chữ Hán, phiên âm và chú thích, nhưng đều theo cách hiểu của Chu Hi và đều không phân loại các bài, không có bảng tên người và tên đất, bất tiện cho việc tra cứu.
Chúng tôi tham khảo thêm một số bản chú giải và bản dịch khác, đặc biệt là bản Luận ngữ độc bản của Thẩm Tri Phương và Tưởng Bá Tiềm, nhà Khai Minh xuất bản ở Hương Cảng gồm hai tập, bản Luận ngữ chú dịch của Triệu Thông, nhà Hữu Liên xuất bản cũng ở Hương Cảng năm 1967 và bản Luận ngữ nhị thập giảng của Vương Hướng Minh –Trung Hoa Thư cục –Đài Loan –1958, để biết thêm cách hiểu một số học giả Trung Hoa xưa và nay.
Bài nào có nhiều cách hiểu thì chúng tôi lựa lấy một và ở phần chú thích ghi thêm vài kiến giải khác. Sự lựa chọn đó chỉ là ý kiến riêng của tôi thôi, không có giá trị gì hơn những lựa chọn khác. Làm như vậy chúng tôi chỉ mong thoát ra khỏi lối hiểu chính thống của Tống nho, ráng tìm hiểu tư tưởng Khổng Tử theo một tinh thần khách quan và giúp độc giả thấy đuợc nhiều lối hiểu để phán đoán.
Tôi cũng tham khảo thêm lối dịch của Lâm Ngữ Đường, học giả này thỉnh thoảng có những ý mới mẻ, khác người; sau cùng cuốn Confucius của Etiemble (Gallimard 1966) cũng giúp tôi được ít nhiều.
Mỗi bản đánh số theo một cách, phần nhiều theo lối của Chu Hi. Chúng tôi theo lối của Triệu Thông (sách đã dẫn).
………………………….. ngưng trích).
Và về KINH THI, thì còn phức tạp hơn. “…. vì đây là văn pháp và từ ngữ đời Chu nên từ trước đến nay, giữa các nhà chú giải Kinh Thi thường có sự bất đồng ý kiến.( http://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_Thi )”
Nên một khi anh Minh Di viết:
“Kinh Thi nói cái tốt đẹp có, nói cái xấu, cái sai có, hoặc khuyên, hoặc răn thì tất cả đều làm cho tâm con người trở nên chính trực (VÔ TÀ), cho nên đọc Kinh Thi thì cảm mà phát khởi chí hướng thiện.
Nói “khả dĩ HƯNG” là hưng (phát khởi) cái tâm chính trực, “VÔ TÀ” đó!
… (Minh Di viết – bài trong attach file)”
Chỉ lộ ra là một Minh Di, thiển cận. Không có cái nhìn bao quát, đọc như một con “vẹt”, chẳng biết phân biệt đúng sai. Anh Minh Di tin rằng:
“ Khổng Tử nói trong “Luận Ngữ”:
~ Thi tam bách, nhất ngôn dĩ tế chi, viết: “tư vô tà”.
/ Luận Ngữ. Vi Chính. 02 /.
~ Kinh Thi 300 bài, (có thể) tóm lại trong một câu đó là: “tư tưởng chính trực”.
(Minh Di viết – bài trong attach file)”
Đúng là cái đầu Minh Di “bã đậu”, cứ Khổng Tử “phán” là đúng sao. Hãy đọc “KHỔNG TỬ THẾ GIA” của Tư Mã Thiên thì sẽ rõ:
“Khổng Tử nghèo hèn, đến khi lớn lên làm lại cho họ Quý. Việc tính toán đo lường đứng đắn cho nên được làm chức coi súc vật. Súc vật đông đúc sinh đẻ nhiều, nên được làm tư không. Được ít lâu, Khổng Tử rời khỏi nước Lỗ, bị ruồng bỏ ở nước Tề, bị đuổi ở nước Tống và nước Vệ, bị nguy khốn ở giữa miền nước Trần và nước Thái, cuối cùng lại trở về nước Lỗ. ….( trích từ Sử ký Tư Mã Thiên)”
Nghĩa là Khổng Tử đã bị đuổi chạy như ngựa, và mặc dù, Khổng Tử đã từng làm quan tới chức Tướng Quốc. Nhưng nghề chính của Khổng Tử là “du thuyết”. Tất cả những kẻ đã đi “du thuyết” thì không bao giờ có tâm “chánh trực”, bởi họ chỉ dùng “miệng lưỡi” đưa đẩy để kích động sao cho hợp ý nhà vua để được cái lợi về cho mình. Điển hình như: Tô Tần, Trương Nghi, Phạm Thư, Thái Trạch……
Suy nghĩ này, không phải là để “coi thường” Khổng Tử, mà vẫn hoàn toàn tôn trong các ý kiến: Coi Khổng Tử là bậc chí Thánh, Khổng Tử là một thứ vua, một thứ vua về tinh thần………..
Mà chỉ là để đặt vấn đề: Không hẳn lời nào của Khổng Tử cũng là đúng hoàn toàn.
“Thi tam bách, nhất ngôn dĩ tế chi, viết: “tư vô tà”!
Tà (邪): Tư tưởng hoặc hành vi không ngay thẳng.
Liếc mắt đưa “tình” cũng là “tà” đấy! Thì những lời thơ “dâm bôn”, phải là “đại” tà, mới đúng chứ!
“Các bài Thác hề, Trăn Vĩ, Sơn hữu phù tô, Phong vũ, Dã hữu man thảo (Trịnh phong), Tang Trung (Vệ phong), Đông phương chi nhật (Tề phong)... đều nói về tình yêu nam nữ tự do; nhiều bài trong Trịnh phong, người con gái còn ở tư thế chủ động để tỏ bày tình cảm, khiến Khổng Tử phải chê nhạcnước Trịnh là "dâm loạn", Chu Hy cũng thường chỉ trích. (http://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_Thi )”
Trong “Thi Kinh Tập Truyện” của dịch giả Tạ quang Phát (1969) đã tóm lược về nội dung các bài ấy như sau:
Thác hề: Lời con gái dâm bôn phụ họa theo hứng thú của tình nhân.
Trăn Vĩ: Trai gái thừa dịp dạo chơi để trao ân tình.
Sơn hữu phù tô: Lời con gái dâm bôn trêu ghẹo tình nhân.
Phong vũ:Lời con gái dâm bôn hả hê khi gặp được tình nhân.
Dã hữu man thảo: Trai gái gặp nhau và cùng vừa lòng thích ý.
Tang Trung: Lời hứa hẹn dâm ô.
Đông phương chi nhật: Con gái đi theo tình nhân.
………………
Giảo đồng: Lời con gái dâm bôn không sợ bị bỏ rơi nói cợt với tình nhân.
Khiên thường: Lời con gái dâm bôn lắm tình nhân không sợ bị bỏ rơi.
………………….
Trong Kinh Thi còn rất nhiều bài về thói “phóng túng, trăng hoa…” trai gái như thế đó! Sao ““tư vô tà” được! Hãy nhìn nhận thực tế, anh Minh Di đừng “mát dây” cao siêu quá về ngôn từ “tư vô tà”. Không thể “tư vô tà” được khi nhưng bài thơ “dâm ô” đó đã tiêm nhiễm vào đầu. Mà “có lẽ” sẽ từ đó, “rút ra” kinh nghiệm “tà” cao siêu hơn mà thôi! Trừ không đọc thì mới có thể nói “tư vô tà”!
Do vậy, thưa quý vị, khi anh Minh Di cho rằng:
“Nói “khả dĩ HƯNG” là hưng (phát khởi) cái tâm chính trực, “VÔ TÀ” đó!
(Minh Di viết)”
Thì cái đầu anh Minh Di “ấu trĩ” thật! Thêm nữa “hưng (phát khởi) cái tâm chính trực, “VÔ TÀ””, để giải quyết cái gì? Giữa xã hội thời đó đầy dẫy bất công.
Mời quý vị đọc đoạn cuối, lời đề tựa của Giáo sư Bửu Cầm, phụ trách giảng khoa Việt Hán, trường Đại Học Văn Khoa Sai Gòn:
“Kinh Thi còn có những bài tả nỗi thống hận của dân chúng đối với vua quan thời đó nữa (3). Vì thế mà Tưởng tổ Di đã xem Kinh Thi là một khảo chứng phẩm về nồng nghệ cổ thời . Hồ Thích cũng đã dùng Kinh Thi để nghiên cứu trạng huống xã hội Trung quốc trong giai đoạn mà Hồ gọi là “thời kỳ thai nghén triết học”
BỬU CẦM”
Chúng ta phải nhậy bén mà hiểu rằng: Tất cả người dân, nhất là thời đó khoảng thế kỷ thứ 5 trước công nguyên, còn nhiều lạc hậu. vì thế người dân, là luôn “tâm chính trực”: “lương dân” mà. Tư tưởng đơn sơ, đâu “cáo” bằng tầng lớp thống trị. Đồng hoàn cảnh, ngưòi nô lệ cũng “tâm chính trực” cả đấy, thì có “hưng (phát khởi) cái tâm chính trực” đến đâu đi chăng nữa, chẳng có giải quyết được gì với bọn “chủ nô” da trắng “vô cảm”!
Chả lẽ, câu Khổng Tử mang tính tiêu cực:“khả dĩ HƯNG” là hưng (phát khởi) cái tâm chính trực” thế ư? Như vậy, có nghĩa Khổng Tử khuyên người ta tiếp tục làm đày tớ, làm nô lệ sao!
Nên chỉ có thể: “‘Thi’, khả dĩ hưng là THI có thể phát huy chí khí.”, để với ý chí và nghị lực (chí khí) mãnh liệt thì mới mong hy vọng có thể chịu đựng, đấu tranh, hầu thoát khỏi “nỗi thống hận” đang đè nặng!
Thưa quý vị,
Mời quý vị xem tiếp, lời “chỉ trích” thứ hai của anh Minh Di về lời dịch của tôi.
Anh Minh Di viết:
“ 2/. Khả dĩ oán.
BN 587 dịch: – “có thể giúp người dân điều hướng chính quyền (Vua-Quan) ngày càng sáng (tiến bộ) hơn (oán giận, kêu oan là hình thức cảnh tỉnh chính quyền)”.
Dịch như vậy, nhất là câu “(oán giận, kêu oan là hình thức cảnh tỉnh chính quyền).” thì đây là dịch sai, chẳng hiểu câu “khả dĩ oán” nói gì!
Oán nghĩa là “giận”, là “bất bình”.
~ “Khả dĩ oán” nghĩa là “(Đọc Kinh Thi thì) có thể biết cách bày tỏ cái oán của mình”.
Cách bày tỏ như thế nào?
Người trên làm việc sai trái, không đúng, người dưới muốn can gián, sửa sai, thì dùng lời lẽ mềm mỏng, ôn hòa, lồng trong những ẩn ngữ – tức dùngthí dụ nói xa xôi, hoặc nói bóng gió, để khuyên ngăn – nói rõ hơn, là không nói thẳng ra cái sai trái, cái xấu của người trên.
Khổng Tử nói “có thể bày tỏ cái oán” là như vậy!
(Minh Di viết – bài trong attach file)”
Thưa quý vị,
Không biết anh Minh Di có được thày giáo nào dậy cách viết một câu văn chưa nhỉ? Nhìn vào các mở đóng ngoặc trong câu văn của tôi viết, mà “ú ớ” chẳng hiểu gì sao?
Câu: “có thể giúp người dân điều hướng chính quyền (Vua-Quan) ngày càng sáng (tiến bộ) hơn (oán giận, kêu oan là hình thức cảnh tỉnh chính quyền)”.(BN 587 viết)”
Thì câu mang ý dịch là: “có thể giúp người dân điều hướng chính quyền ngày càng sáng hơn”.
Còn những câu trong ngoặc đơn: (Vua-Quan), (tiến bộ),(oán giận, kêu oan là hình thức cảnh tỉnh chính quyền) , chỉ là để giải thích thêm cho rõ nét những chữ hay ý nào trong câu dịch mà thôi.
Nhưng khi anh Minh Di viết như thế này:
“Dịch như vậy, nhất là câu “(oán giận, kêu oan là hình thức cảnh tỉnh chính quyền).” thì đây là dịch sai, chẳng hiểu câu “khả dĩ oán” nói gì! ..(Minh Di viết)”
Có nghĩa anh Minh Di cho câu giải thích thêm là “câu dịch”, thì “tốt” nhất anh Minh Di nên đi học lại cách viết văn, để may ra bớt nhục cho bảng hiệu:“anh Minh Di, đặc biệt về lãnh vực Hán Văn”!
Kế đến anh Minh Di cho rằng:
“Cách bày tỏ như thế nào?
Người trên làm việc sai trái, không đúng, người dưới muốn can gián, sửa sai, thì dùng lời lẽ mềm mỏng, ôn hòa, lồng trong những ẩn ngữ – tức dùngthí dụ nói xa xôi, hoặc nói bóng gió, để khuyên ngăn – nói rõ hơn, là không nói thẳng ra cái sai trái, cái xấu của người trên…(Minh Di viết)”
Cách diễn tả như nêu trên của anh Minh Di là xác định các bài thơ trong Kinh Thi: Là dùng lời lẽ mềm mỏng, ôn hoà…dùng thí dụ xa xôi, bóng gió….để khuyên can, chứ không nói thẳng thừng, cai sai trái, cái xấu của người trên.
“Kinh Thi có nhiều bài thơ thể hiện sự oán thán, bất bình của dân chúng với tầng lớp trên và những bất công trong xã hội. Bài Chính nguyệt (Tiểu nhã) nói về bọn "tiểu nhân" có tiền sống hoa xa còn dân chúng trong cơn tai biến thì lâm vào cảnh ngộ bi thảm. Bài Bắc sơn (Tiểu nhã) so sánh cuộc sống thư thả, nhàn hạ của tầng lớp quý tộc với sự vất vả, đầu tắt mặt tối của người dân, bày tỏ sự bất mãn cá nhân, cũng nói lên được sự bất bình chung của nhiều người. Bài Hồng nhạn (Tiểu nhã) thì nói về nạn phu dịch nặng nề, đến người quan quả khố rách áo ôm cũng bị bắt làm việc cặm cụi ngoài đồng, bàn tay họ xây nên hàng trăm bức tường thành cao nhưng bản thân thì không có chỗ nương thân
…………………………………….
Sự oán thán của dân chúng trong thơ Quốc phong còn sâu sắc và gay gắt hơn so với thơ Nhã[84]. Tiêu biểu như bài Phạt đàn (Ngụy phong) nói người đẵn gỗ suốt ngày bên sông nhưng không có một tí gì, còn kẻ "quân tử" không cày cấy, không săn bắn mà vẫn thóc lúa đầy kho, thú treo đầy nhà, cuối cùng mỉa mai họ là kẻ "ngồi không ăn dầy". Bài Thạc thử ví tầng lớp trên như loài chuột sù đục khoét, đồng thời bộc lộ khát vọng thoát khỏi quyền lực của những kẻ ăn trên ngồi trốc, sống tự do thanh bình
………………………
Bài Bắc phong (Bội phong) phản ánh tình trạng dân chúng chịu nền chính trị bạo ngược, hà khắc, rủ nhau bỏ trốn. Bài thơ ví quạ đen và hồ ly với người cầm quyền và sự thống trị tàn khốc, cả bài là không khí buồn thảm, căng thẳng. Bài Mộ môn đả kích kẻ chấp chính bất lương, lại mượn hình ảnh rìu phạt gai góc trước cửa mộ để nói nguyện vọng muốn trừ bỏ kẻ đó. Các bài Thuần chi bôn bôn, Tướng thử (Dung phong)... đều có ý tương tự.
………………………..
Trong Quốc phong có rất nhiều bài thơ oán trách việc phu phen và chiến tranh nặng nề gây nên thảm cảnh cho dân chúng. Bài Bảo vũ (Đường phong) tố cáo đau xót tình cảnh người dân phải đi phu đi lính, bỏ cả cày bừa, cha mẹ không nuôi, cũng không biết đến bao giờ mới được sống yên ổn, phải kêu trời kêu đất than ngắn thở dài………
Qua trích đoạn trên, cho thấy những chứng minh khẳng định trong Kinh Thi đày dãy các bài “oán” nặng nề, gay gắt, lên án tầng lớp lãnh đạo (chính quyền, nhà vua…), trái ngược với trình bày của anh Minh Di là “oán” theo kiểu “mềm mỏng, ôn hoà….”! Đủ chứng tỏ anh Minh Di chỉ có nhận định như con “vẹt”, chứ không hề biết phân tích đúng sai.
Nên, khi anh Minh Di nói tôi dịch sai, thì đó chỉ là ý của một con “vẹt” Minh Di, thiết nghĩ chẳng đáng quan tâm, phải không thưa quý vị.
Nhưng dầu sao, tiện đây tôi cũng trình bày thêm đến quý vị về ý dịch câu:
“ Khả dĩ oán.:“có thể giúp người dân điều hướng chính quyền (Vua-Quan) ngày càng sáng (tiến bộ) hơn (oán giận, kêu oan là hình thức cảnh tỉnh chính quyền)”. (BN 587 viết)”
Chúng ta lấy ngay thí dụ cụ thể điển hình:
Những cuộc biểu tình hiện nay ở Việt Nam đối với “cường quyền” Cộng Sản. Thì những cuộc biểu tình đó là đương thể hiện “OÁN” đấy!
Và chữ tôi viết “oán giận, kêu oan” là để mở rộng hiểu thêm cái bao quát về “OÁN”!
Và mục đích các cuộc biểu tình như vậy, của người dân là đòi hỏi “cường quyền CS” phải giảm bớt, sửa đổi hay thay đổi … gì đó về đường lối, chính sách, quy định, quy chế…… đối với dân chúng, hay đối với đường hướng ngoại giao (chẳng hạn dân chúng biểu tình đòi hỏi “cường quyền” CS phải đòi lại Hoàng sa….). Có nghĩa các cuộc biểu tình (khả dĩ oán) ấy sẽ “tác động” làm cho “cường quyền” CS trong cách lãnh đạo ngày một tiến bộ ( càng sáng) hơn (đó là suy theo sự trông mong “hướng” thành công của biểu tình, không nói đến thất bại)!
Nghiệm một phần từ đó, rồi suy ngược lại đời nhà Chu, nên tôi mới dịch: “ Khả dĩ oán.:“có thể giúp người dân điều hướng chính quyền ngày càng sáng hơn”, là tôi nghĩ Khổng Tử muốn diễn tả cái kết quả “tích cực” gặt hái “có thể” có được từ biểu hiện “OÁN” mà nên!
Thưa quý vị,
Cảm ơn quý vị đã bỏ thời gian để đọc một bài dài. Nhưng quả thật tôi vẫn còn chút khó hiểu. Mong quý vị nán lại chút xíu nữa để tôi được trình bày:
Số là bữa trước tôi nghĩ “anh Minh Di, đặc biệt về lãnh vực Hán Văn” với sự hiểu biết và tính tình như thế, thì tên “Minh Di” có lẽ viết bằng chữ Hán là:
冥夷 (ngu dốt - mọi rợ). Và tôi đã cẩn thận xem lại ở từ điển, để tránh bị viết chữ sai. Xong, tôi vẫn “bị” anh Minh Di “phán” là viết sai nữa rồi.
Tôi nghĩ mãi mới nghiệm ra, tôi sai là phải. Bởi anh Minh Di đã xác định “có nhắm mắt viết cũng trúng!”, là chắc hẳn chữ “Minh” phải là chữ Hán:
- 瞑 (Minh): đt. Nhắm mắt – t. tối tăm, hôn ám.
Rồi có “mắt” để “nhắm mắt” , thì chắc hẳn chữ “Di” phải là chữ Hán:
- 羠 (Di): Dê đực đã thiến.
Vậy tên anh Minh Di viết bằng chữ Hán là: 瞑 羠 , và nghĩa Việt là: Sự nhắm mắt của con dê thiến!
Thưa quý vị, nhưng “anh Minh Di, đặc biệt về lãnh vực Hán Văn” , chỉ viết âm Hán bằng chữ việt. Nên lại phải mất thì giờ dịch nghĩa sang chữ Hán âm Việt:
Minh Di(瞑 羠): Bế mục yêm dương (Bế là nhắm, Mục là mắt, Yêm là thiến, Dương là dê)!
Trân trọng,
BN 587