Friday, November 6, 2015

Trường hợp Giáo sư Vũ Văn Mẫu: kẻ khôn làm đầy tớ thằng ngu hai lần!

Trường hợp Giáo sư Vũ Văn Mẫu: kẻ khôn làm đầy tớ thằng ngu hai lần!
Phạm Quang Trình

Khi Mỹ âm mưu lật đổ TT Ngô Đình Diệm  và nền Đệ Nhất Cộng Hòa bằng việc mua chuộc một số tướng lãnh đóng vai trò chủ chốt thì mặt khác, Mỹ cũng liên hệ và mua chuộc những nhân vật dân sự bằng những hứa hẹn quyền lợi và chức tước. Những nhận vật đó gồm: Ông bà Đại sứ Trần Văn Chương ở Hoa Kỳ, Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ Trưởng Phủ Tống Thống Nguyễn Đình Thuần, Chánh Văn Phòng Phủ Tổng Thống Võ Văn Hải và đặc biệt là Bộ Trưởng Ngoại Giao Vũ Văn Mẫu... Người viết muốn nhấn mạnh đến nhân vật Vũ Văn Mẫu ở đây.
Giáo sư Vũ Văn Mẫu có bằng Thạc sĩ Tư Pháp, được chính phủ Ngô Đình Diệm cho làm Khoa Trưởng Trường Đại Học Luật Khoa Sài Gòn, sau cất nhắc lên làm Bộ Trưởng Ngoại Giao từ 1955 đến 1963. Trên cương vị Bộ Trưởng Ngoại Giao, nhờ nội bộ ổn định và nhất là bằng vào uy tín của chính quyền  Đệ Nhất Cộng Hòa và cá nhân TT Ngô Đình Diệm, Giáo sư Vũ Văn Mẫu nghiễm nhiên trở thành một trong những khuôn mặt sáng giá của chế độ. Trong thời gian làm Bộ Trưởng Ngoại Giao, Giáo sư Vũ Văn Mẫu vẫn được tiếp tục giảng dạy tại Đại Học Luật Khoa các lớp ban Cử Nhân và ban Cao Học. Đặc biệt, các sách giáo khoa (Cours) do Giáo sư biên soạn như Dân Luật Khái Luận, Dân Luật Lược Khảo, vân vân đã được các sinh viên đón mua cách nồng nhiệt, và đó cũng là món huê lợi không phải là nhỏ. Chức vụ, quyền hành và lợi lộc tưởng chưa mấy nhân vật nào được ưu đãi hơn. Theo Giáo sư Vũ Quốc Thúc, TT Ngô Đình Diệm tỏ ra rất nể trọng GS Vũ Văn Mẫu và GS Vũ Quốc Thúc. Cả hai ông đều được TT Ngô Đình Diệm trân trọng kêu bằng “Ngài”. Vậy mà sau khi được Mỹ móc nối và hứa hẹn, GS. Vũ Văn Mẫu đã trở mặt, quay đúng 180 độ ngay sau biến cố Phật Giáo cũng do CIA Mỹ đạo diễn, cạo đầu, xin từ chức và xin đi hành hương Ấn Độ. Việc làm của GS Vũ Văn Mẫu dĩ nhiên như đổ thêm dầu vào lửa sau vụ “bị thiêu sống” của TT Thích Quảng Đức làm cho tình hình bang giao Việt - Mỹ đang căng thẳng, trở nên gay cấn hơn, tạo thêm lý do để Mỹ xúi giục bọn tướng lãnh phản bội chuẩn bị ra tay. Tưởng rằng sau đảo chánh 1-11 thành công, GS. Vũ Văn Mẫu sẽ nắm vai trò quan trọng như chức vụ Thủ Tướng, nào ngờ được bố thí cho chức Đại Sứ tại Anh Quốc. Nhưng chưa đầy 4 tháng thì cuộc Chỉnh Lý của Nguyễn Khánh xầy ra khiến Giáo sư mất luôn chức Đại sứ để trở về Trương Luật dạy học kiếm ăn.
GS Vũ Văn Mẫu xuống tóc “tranh đấu cho Hoà Bình, Dân Chủ, Tự Do”.
Sau một thời gian thậm thụt đi theo phe Phật Giáo Ấn Quang không ăn cái giải vì đám sư này quyết liệt tẩy chay mọi hoạt động của Chính quyền VNCH thì sự nghiệp chính trị của GS Vũ Văn Mẫu kể như kết thúc. Nhưng đột nhiên, đám sư sãi Phật Giáo Ấn Quang nghĩ lại nếu cứ tiếp tục tẩy chay chính quyền thì tự cô lập mình và phe Phật Giáo Việt Nam Quốc Tự của TT Thích Tâm Châu được chính quyền công nhận sẽ thắng thế. Phật Giáo Ân Quang liền tung ra Liên Danh Hoa Sen ứng cử vào Thượng Nghị Viên 1973 do GS. Vũ Văn Mẫu đứng Thụ Uỷ cùng một số nhân vật như Bác sĩ Nguyễn Duy Tài, Tôn Thất Niệm, Tôn Ắi Liêng, Trần Quang Thuận, vân vân đồng thời ủng hộ Dương Văn Minh ra tranh cử Tổng Thống. Nhưng khi thắng cử vào Thượng Nghị Viện rồi, Liên danh Hoa Sen cũng vẫn chỉ là thiểu số không nắm được một chức vị nào cả. Đã vậy, Nghị sĩ Nguyễn Duy Tài trong Liên danh Hoa Sen lại trở cờ chạy theo phe thân chính quyền, được chức Chủ Tịch Ủy ban Ngoại Giao Thượng Viện.  Suối gần 2 năm trời ở Thượng Viện, Liên danh Hoa sen và NS Vũ Văn Mẫu chẳng làm nên trò trống gì. Qua năm 1975, tình hình mỗi ngày thêm biến đổi, ông được phe Ấn Quang cử làm Chủ Tịch Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc mà Văn phòng đặt tại Khối Dân Tộc Xã Hội Hạ Nghị Viện. Nghị sĩ Vũ Văn Mẫu theo chỉ đạo của Ấn Quang đang nhắm đóng vai trò đại diện “Thành thành phần thứ ba” trong Chính Phủ ba thành phần. Nhưng vì thiển cận không nhìn xa trông rộng, không thấy được nước cờ Hoa Kỳ và đối phương đang đi nên cuối cùng trở thành công cụ hốt rác cho Mỹ. Ngày 28-04-1975, vừa mới nhậm chức, thì cùng với Dương Văn Minh, ông nhân danh là Thủ Tướng Chính Phủ tuyên bố: “Yêu cầu Mỹ rút khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ” không phải để có “Chính Phủ Hòa Hợp Hòa Giải” mà là đầu hàng cách nhục nhã Cộng Sản ngày 30-04-1975.
Nhiều nhân vật cho biết, vào những giờ phút cuối, khi Dương Văn Minh bị áp lực của Việt Cộng sắp sửa tuyên bố đầu hàng, “Thủ Tướng một ngày” Vũ Văn Mẫu đã tỏ ra hoảng sợ cũng muốn tìm đường chạy trốn nhưng quá muộn, đành phải cúi đầu theo Dương Văn Minh vào Dinh Độc Lập đón tiếp bọn ăn cướp!  Bị kẹt lại Việt Nam, Vũ Văn Mẫu cũng như Dương Văn Minh, nhờ “công lao hãn mã đầu hàng vô điều kiện” nên Cộng Sản tha cho khỏi phải đi “học tập cải tạo” trong các trại tù như bao Quân Dân Cán Chính VNCH khác, mà chỉ bị học tập tại chỗ.  Mấy năm sau, khi tìmh hình ổn định, Việt Cộng cho ông qua Pháp định cư.
Năm 1988, ông viết Hồi Ký “Sáu Tháng Pháp Nạn của Minh Không Vũ Văn Mẫu” để kể tội chế độ Ngô Đình Diệm, một chế độ đã đối xử rất tử tế với ông: cử làm Bộ Trưởng Ngoại Giao suốt từ 1955 dến 1963, một Bộ Trưởng ở lâu nhất trong chức vụ.
Đọc bài giới thiệu Hồi Ký “Sáu Tháng Pháp Nạn” của GS. Vũ Văn Mẫu do Giao Điểm xuất bản năm 2003 trên Internet, người ta thấy ông chê bôi, chỉ trích chế độ Ngô Đình Diệm và các nhân vật trong gia đình Tổng Thống Diệm một cách gay gắt không tiếc lời. Chưa hết, ông tấn công Dụ Số 10 do Bảo Đại đưa ra nhưng lại đổ tội cho TT Ngô Đình Diệm là “thủ phạm vì nó mà gây nên Pháp nạn.
Người viết tự hỏi: Giáo Sư Vũ Văn Mẫu, một nhân vật chính trị lớn, một nhà ngoại giao có tầm vóc, một Luật gia nổi tiếng, một Kẻ Sĩ thời đại tại sao lại có hành động như vậy?  Đáng lý ra với tư cách là một Luật gia nổi tiếng, một nhân vật lớn của chế độ (Bộ Trưởng Ngoại giao), một tín đồ Phật Giáo thuận thành với “Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi”, một kẻ sĩ thời đại “Phú quý bất năng dâm, Bần tiện bất năng di, Uy vũ  bất năng khuất”, đã được chế độ ưu đãi trân trọng, thì nếu có những gì sai trái xẩy ra, phải có bổn phận lên tiếng can ngăn, cảnh giác, trình bày điều hơn lẽ thiệt để sửa đổi và để cứu nguy chết độ, chớ sao lại bỏ ngang chơi trò “cạo đầu”, đổ thêm dầu vào lửa, đâm sau lưng Lãnh Tụ? Là một nhân vật được Tổng Thống rất nể trọng, tại sao ông không có can đảm đặt thẳng vấn đề với Tổng Thống khi họp Hội Đồng Nội Các hay lúc gặp gỡ riêng liên hệ đến lãnh vực ngoại giao? Vậy mà ông ngậm tăm, không làm gì cả ! Có phải vì ông cũng là thứ người hèn nhát, chỉ biết gọi dạ bảo vâng? Nếu quả tình GS Vũ Văn Mẫu xứng đáng với những danh xưng đó, thì những ai chịu suy nghĩ cũng khó mà tìm được lời giải đáp. Vì cho đến giờ phút này, vẫn chưa có ai chứng mình được rằng Dụ Số 10 đã gây thiệt hại những gì cho Phật Giáo, ngoại trừ luận điệu xuyên tạc chế độ Ngô Đình Diệm là “gia đình trị” và “kỳ thị tôn giáo”. Nói cho cùng, Dụ số 10 chỉ là cái cớ để mấy nhà sư tranh đấu lợi dụng nhằm gây bất mãn cho mục tiêu lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Còn trên thực tế, vì nhu cầu tổ chức của chính phủ Quốc Gia Việt Nam, vua Bảo Đại ban hành Dụ số 10 để cơ quan hành chánh căn cứ vào đó mà làm việc với các tổ chức đoàn thể. Trên nguyên tắc, Phật Giáo là một tổ chức thì cũng phải ghi tên, đăng ký như các đoàn thể tổ chức khác. Nhưng cũng trên thực tế là Chính quyền của TT Ngô Đình Diệm không hề áp dụng Dụ số 10 với Phật Giáo. Chẳng những thế, chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa còn tỏ ra trân trọng giúp đỡ tận tình Phật Giáo xây Chùa, cho sư tăng xuất ngoại du học, vân vân và có thể nói đó là thời Phật Giáo phát triển mạnh nhất.
Xin hỏi lại mấy ông sư tranh đấu: Ai cho tiền xây Chùa Xá Lợi? Ai cho đất để xây Chùa Vĩnh Nghiêm? Ai cho các vị sư nổi tiếng như Thích Quang Liên, Thích Thiên Ân, Thích Nhất Hạnh, vân vân du học ngoại quốc? Có phải là chính Phủ Ngô Đình Diệm hay ai khác?  Hỏi tức là trả lời. Vậy mà chính phủ Ngô Đình Diệm chỉ vì Chủ quyền Quốc gia, chống đối lại việc Mỹ muốn đưa quân vào Việt Nam đã bị hàm oan và trở thành nạn nhân?
Luận điệu nói rằng chính phủ Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo cũng sai. Tầm cỡ như TT Ngô Đình Diệm hay ông Cô vấn Ngô Đình Nhu đâu có ngu xuẩn hay dại dột làm những điều tệ hại như thế. Còn đối với Giáo Hội Công Giáo thì vì chưa được Tòa Thánh Vatican coi là trưởng thành, nên vẫn còn nằm dưới sự quản trị của Hội Thừa Sai Paris tức là MEP (Mission Étrangère de Paris) chớ chẳng phải ưu đãi gì. Vậy mà mấy ông đã “vọng ngữ” tức là nói láo rằng Chính phủ Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo, thật không thể tưởng tượng được mồm ép của mấy ông “sư hổ mang”! Các ông đả kích Chính quyền Ngô Đình Diệm về Dụ số 10 để rồi lại gửi văn thư 13-01-1964 xin phép Bộ Nội Vụ của Chính quyền quân phiệt ban hành Nghị định cho phép thành lập Giáo Hội, công nhận Hiến Chương  của mấy ông thì có khác gì “nhổ ra rồi lại nuốt vô”! Bởi thế, càng hô hào thống nhất lại càng chia rẽ! Thống nhất rồi mới tự chia ra hai phe: Việt Nam Quốc Tự và Ấn Quang! Vì có Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất nên ngày nay mới có Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (quốc doanh). Gieo nhân nào thì gặt quả nấy. Đó cũng là luật nhân quả của nhà Phật!  Pháp nạn ở đâu mà ra? Pháp nạn nằm trong lòng mấy ông đó! Nhưng Dụ Số 10 thì vẫn còn giá trị pháp lý và nó vẫn chưa hề bị hủy bỏ, ít ra là cho đến ngày 30-04-1975 .
Trở lại trường hợp GS Vũ Văn Mẫu, quả thật làm Kẻ Sĩ không phải dễ. Có học vị cao, có chức tước lớn cũng chưa bảo đảm hành động tốt và có đạo lý làm người. Khi đã tối mắt vì quyền lợi và chức tước thì Đạo Lý cũng sẽ bị giục vô thùng rác, dù đó là thùng rác của lịch sử. Tất cả những hành động của GS Vũ Văn Mẩu kể từ khi cạo đầu đã lột trần bản chất con người ông. Càng về sau thì sự thật con người của ông càng lộ ra những cái mà người có lương tri, đạo lý phải lắc đầu: một tên hoạt đầu chính trị!
Nhân danh là một trí thức, một nhà ngoại giao lớn, một chính trị gia có hạng, một luật gia nổi tiếng, vậy mà ông Vũ Văn Mẫu đã nghe lời dụ dỗ của ngoại bang, cạo đầu chống đối chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa, một chế độ hợp hiến, hợp pháp, hợp đạo lý để làm tay sai cho Dương Văn Minh, một tên tướng tham, hèn, ngu dâng nốt Miền Nam cho Cộng Sản.
Người ta nói: “Làm đầy tớ cho thằng khôn hơn làm thầy thằng ngu.” GS Vũ Văn Mẫu, thay vì làm thầy thằng khôn, lại dại dột đi làm đầy tớ cho thằng ngu, không phải một lần (1963) mà tới hai lần (1975) cho tên tướng tham, hèn, ngu Dương Văn Minh nên thân bại danh liệt là cái chắc.
Thời thế biến chuyển. Lòng người thay đổi. Chỉ vị lợi lộc và thiếu suy nghĩ, những kẻ võ biền như bọn tướng lãnh đâm thuê chém muớn xuất hiện. Những trí thức nửa mùa hoạt đầu như Hoàng Cơ Thụy, Phan Quang Đán, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Xuân Oánh, và sau cùng như Vũ Văn Mẫu nổi lên a dua cũng không thiếu. Người ta nói: “Khôn ba năm dại một giờ”. Bọn chính khách hoạt đầu điếm đàng này thì “khôn ba năm, dại một đời”. Cái dại chẳng những làm hại chính bản thân nó mà làm hại cả một dân tộc!
Phạm Quang Trình
Trích trong “những nhân vật dân sự”
(Lời trối trăng của Ông Cố vấn Ngô Đình Nhu 2)

Thursday, November 5, 2015

VIỆT TÂN LÀ GÌ? -Phạm Văn Thành

Để biết thêm về những Ma Trận (Matrixes).

Không còn gì nghi ngờ nữa: VT chỉ là một tổ chức của CS tạo ra để thực hiện và làm tan giấc mơ của những người chống Cộng tài tử. CSVN đã lơị dụng ý chí cao độ muốn phục quốc của người Việt tị nạn để dàn dựng ra tổ chức Hòang CM và sau này là VT nhằm mục đích thu gom những nhân vật chống đối CS hầu khoá tay hay làm mất uy tín họ đồng thời thu về một số tiền yểm trợ lớn.
Nhà văn Trần Khải Thanh Thuỷ đã sớm phát hiện tông tích của VT và đã nhanh chóng tuyên bố ly khai khi vừa đặt chân tới Mỹ.(William Hoang)
VIỆT TÂN LÀ GÌ?
-Phạm Văn Thành
Việt Tân sau 30 năm, người tài thi nhau ngã bổ ngửa: Từ Phạm Văn Liễu, Trần Minh Công, Phạm Ngọc Lũy đến Nguyễn Xuân Nghĩa, Nguyễn Trường Lưu! Từ Nam Dao/Phan Văn Hưng đến Trần Xuân Ninh và rồi đến Ðặng Thanh Chi, Huỳnh Ngọc Phước, Nguyễn Trọng Việt… Giờ điểm lại, lôm côm những Nguyễn Ngọc Bảo, Nguyễn Ngọc Ðức…"
Lời tác giả: Bài viết này được viết lại sau khi có những status trao đổi trong một nhóm kín về hoạt động công tác Nhân quyền, liên quan đến tổ chức chính trị Việt Tân. Xét thấy cần cho sự tìm hiểu của nhiều anh chị em đang hoạt động cho nhân quyền trong và ngoài nước, tôi hiệu chỉnh lại từ các bình luận của tôi và chuyển lên trang fB công khai. Vừa là một sự chia sẻ thông tin, vừa là để tránh những ngộ nhận rằng tôi lôi kéo một số anh chị em vào group riêng để… đánh phá Việt Tân! Việt Tân là một tổ chức chính trị có tham vọng giải phóng /chuyển đổi đất nước. Trong vị trí ấy, đương nhiên phải chịu những sự nghị luận của công chúng. Gọi sự nghị luận ấy là hành vi đánh phá, ít nhiều, đã là việc tự hạ thấp đi nhân cách chính mình.
Tổng quan: Việt Tân, Anh là ai?
Việt Tân là một tổ chức chính trị lớn tại hải ngoai, nhiều nhân sự và nhiều tài lực do truyền thừa vốn liếng của tổ chức Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam giai đoạn 1982/1986. Thành lập tại căn cứUbon, một tỉnh biên giới giữa Thái Lan và Cam Bốt năm 1982.
Danh xưng đảng Việt Tân từ 12/1982 chỉ lưu hành trong các căn cứ phục quốc ở biên giới Thái, mãi 1984 mới ra hải ngoai (Pháp) qua một nhân lực tình nguyện xâm nhập nội địa để khai mở con đường kết nối hải ngoại quốc nội. Nhân lực đặc biệt ấy là thuyền nhân đến Pháp từ trại tỵ nạn Palawan Phi luật tân mang bí danh Cao Văn, ông phải lộn trở lại Pháp vì bản thân là thương phế binh sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, chiếc chân gỗ của ông đã không được đón nhận tại rừng núi Ubon. Ông đã có mặt tại vùng núi rừng chiến khu ấy cùng với đoàn người đặc biệt được dẫn đầu bởi cụ Phạm Ngọc Lũy, chủ tịch Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến. Trở lại Pháp, ông chịu trách nhiệm một ủy ban đặc biệt bí mật của tổ chức, Ủy Ban Ðông Tiến Âu Châu.
Danh xưng đảng Việt Tân đến 1992 mới tràn lan hải ngoai sau khi đồng hóa toàn bộ tất cả các đoàn viên Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam thành đảng viên Việt Tân không qua nghi thức tuyên thệ lại.
Năm 1984, tháng 10 xảy ra những xung đột trầm trọng ở thượng tầng lãnh đạo. Nguyên do xung đột đến từ nguyên nhân tài chánh là chủ yếu.Ðồng bào hải ngoại giai đoạn 1982/1984 góp quỹ đông đảo. Các chiến dịch Yểm Trợ Kháng Chiến lan cực nhanh tại Tây âu và Mỹ Úc.
Người chủ xướng Phong Trào Yểm Trợ Kháng Chiến là ông Phạm Ngọc Lũy, thuyền trưởng tàu Trường Xuân. Con Tàu ông điều khiển thoát khỏi Việt Nam ở những giờ phút cực kỳ sóng gió tháng Tư 1975. Nhiều ngàn người chen chúc trên con tàu định mệnh ấy, sáu năm sau trở thành những nhân tố đầu tiên để xây dựng nên cơ cấu Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến loang khắp các quốc gia có người Việt sinh sống, do đích thân chính cụ Phạm Ngọc Lũy chống gậy đi vận động. Các Ủy ban yểm trợ mọc lên như nấm. Việc này nằm ngoài cả trù liệu của ông Hoàng Cơ Minh và ban tham mưu. Chúng ta nhận rõ được sự lúng túng choáng ngợp của lãnh đạo Việt Tân lúc bấy giờ qua buổi đón tiếp ông Minh về Hoa Kỳ từ Thái/Nhật tháng 4 năm 1983. Sự tiếp đón diễn ra như một thứ Hội Nghị Diên Hồng hải ngoại với hội trường đặc nghẹt từ trong ra ngoài khoảng 14 ngàn người về từ khắp các quốc gia, với tiếng cười tiếng khóc, với hân hoan và khát vọng cùng tâm thức hiến dâng. Ông Minh đã mất bình tĩnh trong không khí này và đã buột miệng trong một phát ngôn ở phần diễn văn (do ông Nguyễn Xuân Nghĩa viết, nhưng ông Minh đã chỉ đọc chừng 60%, những phần trăm còn lại là phát ngôn tự do) rằng lực lượng xâm nhập của Mặt Trận/Việt Tân đã VÀO ÐƯỢC ÐẤT MẸ VÀ BẮT TAY THỐNG HỢP ÐƯỢC 36 TỔ CHỨC TRONG NƯỚC VỚI HƠN 10.000 TAY SÚNG. Ðây là câu phát ngôn đã đánh sập sự vững chãi của MTQGTNGPVN hai năm sau đó.
Ðồng bào nô nức góp tài lực qua các chiến dịch "Ký gạo cho Kháng Chiến Quân" (Âu Châu, do Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam phát ý qua sự điều hợp của các ông Nguyễn Ngọc Giáp, Nguyễn Ngọc Danh, Nguyễn Ngọc Vũ, bác sĩ Nguyễn Ngọc Hoàng (cựu thiếu tướng Việt Nam Cộng Hòa), Nguyễn Ngọc Bảo... trong vai trò Ủy Ban Ðiều Hợp Phong Trào Yểm Trợ Kháng Chiến Âu Châu.
Việt Tân có tầm hoạt động lớn ở Âu Châu lúc bấy giờ là do lực hỗ trợ ban đầu của Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris, dùng tờ Nhân Bản làm tờ báo hỗ trợ. Nhưng tới sau 1984 thì tổ chức Tổng Hội phân làm hai, phần đông là chống lại Việt Tân kịch liệt vì đã nhìn thấy những sự bất tường bất minh của Việt Tân, đặc biệt là sau khi vụ án ông Trần văn Bá tháng 12/1984 xảy ra tại Việt Nam (anh Trần văn Bá, lãnh đạo Tổng Hội Sinh Viên Paris 1975/1980 cùng ông Hồ Thái Bạch và ông Lê quốc Quân bị xử tử hình ngày 6 tháng 1/1985 tại sân bắn Thủ Ðức).
Ở Mỹ, các tổ chức yểm trợ hình thành khắp mọi nơi. Những tiệm phở Hòa ban đầu (dựng lên do tiền mượn học đại học của đông đảo đoàn viên là sinh viên) được chiếu cố tận tình. Người ta sẵn sàng đứng hàng giờ chờ ăn Phở. Nhiều hàng Phở khách vào tận bếp mang phở ra bàn ăn rồi tự trả tiền, bao giờ cũng hơn số tiền bát phở đã ăn. Phong trào như hoa nở thơm ngan ngát! Lòng ai cũng hừng hực nghĩ về lực lượng phục quốc. Các chiến dịch "Lon Kháng Chiến" được đặt hầu như khắp mọi nhà. Không khí đưa đẩy hầu như ai ai cũng đặt "lon kháng chiến " tại gia đình và tại các cửa tiệm, vừa là để chứng minh tấm lòng với đất nước, vừa là để tránh lập dị.Các chi bộ Mặt Trận và Phong Trào Yểm Trợ phát triển rộng khắp, áo nâu như một thứ mode của người Việt ở Mỹ. Những tờ báo nào chống lại Việt Tân đều dẫn đến bị đốt hoặc thảm tử (ký giả độc lập Ðạm Phong, hoặc như ký giả Lê Triết của tờ Tiền Phong phải lom khom đi mò giun trong lúc tuổi còn đầy sung mãn và kiêu mạn...). Ðoàn viên Mặt Trận lý luận và tổ chức yếu nhưng rất đông đảo, dẫn đến sự tan rã ngay tức khắc, khi xảy ra lủng củng ở thượng tầng giai đoạn cuối 1984.
Diễn biến chi tiết
Đảng Việt Tân thành lập khoảng tháng 12 năm 1982 nhưng người đứng đầu hải ngoại của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất không nắm vững chi tiết hoạt động! Các hoạt động kháng chiến được loan báo trên tờ báo Kháng Chiến ở hải ngoại hầu hết chỉ là thông báo cho Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hải Ngoai là ông Phạm Văn Liễu/Trần Trung Sơn biết khi đã đăng tin trên mặt báo. Mọi chi tiết mật về chi thu tài chánh, xây dựng lực lượng khu chiến… đều nằm trong vòng quản lý bảo mật của ông Hoàng Cơ Minh và ông Hoàng Cơ Định, em ruột ông Minh. Người đứng đầu Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến là cụ Phạm Ngọc Lũy cũng không biết được những chi thu của quỹ, vì các quỹ ngay từ khi hình thành đã được khuyến khích làm việc trực tiếp với Vụ Tài Chánh của tổ chức Mặt Trận/Việt Tân do ông Phan Vụ Quang (một bí danh của ông Hoàng Cơ Định) điều hành. Yếu tố xây dựng cơ cấu nhân sự ban đầu dựa trên lòng tin đã dần bị nhìn nhận là đang có sự đánh tráo! Vực thẳm tan vỡ xuất hiện.
Cơ cấu ban đầu
Năm 1980/81, màu đỏ cộng sản loang mạnh mẽ ở Cam Bốt, đe dọa cả những đồng minh chiến lược của Mỹ. Ngân sách phòng chống làn sóng đỏ của khối phòng thủ ASEAN tăng vọt. Làn sóng vượt biên gây khiếp hãi cho toàn bộ các quốc gia Đông Nam Á. Mỹ quyết định phải tìm biện pháp ngăn chặn bằng các giải pháp vũ lực. Các đơn vị quân đội "gọi là tinh nhuệ" của Thái Lan được bổ xung dọc biên giới Việt Miên Lào. Những tổ chức kháng Cộng của người Việt đươc âm thầm giúp đỡ qua trung gian Thái và Nhật. Những toán đi tắt vào thẳng Thái đều bị tan vỡ hoặc dậm chân tại chỗ (Lực lượng ông Võ đại Tôn, lực lượng ông Thái Quang Trung…) lý do vì hầu hết các tướng lãnh Thái hoặc những nhân lực trung gian nói tiếng Thái Việt… đều nhận ân sủng lớn của an ninh cộng sản Việt Nam.
Năm 1981 đảng cầm quyền Nhật nhúng tay vào cuộc. Giáo sư Tonoka, đảng Tự do Nhật nhận nhiệm vụ thuyết phục và xây dựng một tổ chức chống cộng chuyên nghiệp người Việt tại biên giới Thái nhằm mục đích xâm nhập Việt Nam. Lực lượng sinh viên Việt Nam ở Nhật đươc tiếp xúc qua những nhân lực có liên hệ với phong trào Đông Du/Cường Đễ còn sót lại từ 1930.
Tập hợp đầu tiên do ông Đỗ Thông Minh lãnh đạo, phụ tá đắc lực là Hoàng Nhật/Ngô Chí Dũng với những tình nguyện viên quyết tử như Lâm Bích Sơn, Lâm Thao, Phùng Tấn Hiệp, Nguyễn Hải Quốc Phục, Trương Bổn Tài, Huỳnh Lương Thiện, Đẩu, Hưng… Khoảng 20 người tình nguyện rời Nhật để tìm đất lập chiến khu trên đất Thái. Truyền thống làm việc của tướng lĩnh quân đội Thái là chỉ nói chuyện với tướng (hoặc cựu tướng) quân đội, từ chối nói chuyện với người đại diện nhóm lúc bấy giờ là cựu Trung Tá Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa Trần văn Sơn/Trần Bình Nam (bút danh cho tới hiện nay, cựu lãnh đạo tổ chức Phục Hưng, cựu dân biểu Việt Nam Cộng Hòa). Việc tìm mướn đất nơi các tỉnh biên giới bế tắc. Giáo sư Tonoka cùng ông Đỗ Thông Minh (đại diện Tổ chức Người Việt Tự Do tại Nhật) cùng sang Mỹ và Âu Châu để tìm nhân lực cấp tướng của Việt Nam Cộng Hòa về Thái lập căn cứ phục quốc. Tại Âu Châu, ông Lâm Bích Sơn và đại diện nhóm vận động có gặp Tổng hội Sinh Viên Paris (thời anh Thanh, tác giả ca khúc “Bên Kia Sông Đuống”) làm chủ tịch. Ở Mỹ, nhóm vận động nhắm vào tổ chức Lực Lượng Quân Dân Hải Ngoai Phục Quốc (đồng phục áo nâu quần vàng kaki, là đồng phục truyền thống của Mặt Trận/Việt Tân cho tới 2000, mất hẳn sau khi cuộc tình duyên lỡ làng giữa Tổng vụ Phó Tổng Vụ Hải Ngoai Trần Xuân Ninh với Vụ trưởng Vụ Tổ chức Hoàng Cơ Định xảy ra 2004).
Lực lượng Quân Dân Hải Ngoại sau cuộc vận động của giáo sư Tonoka đã chia ra làm hai. Thủ lĩnh là tướng Nguyễn Chánh Thi không hợp tác. Người được mời thứ hai là tướng Ngô Quang Trưởng và người thứ ba là tướng… Nguyễn Cao Kỳ. Cả ba đều không hưởng ứng.Chuẩn tướng (phó đề đốc) Hoàng Cơ Minh đã tình nguyện, có sự đồng tình sát cánh của Trung Tá Lê Hồng (Nhảy Dù, chỉ huy tiểu đoàn 5) và sự hỗ trợ đắc lực của cựu đại tá Biệt Đông Quân/Cảnh sát Quốc Gia Phạm Văn Liễu, cựu đại tá Học viện Cảnh sát Quốc Gia Trần Minh Công cùng thuyền trưởng tàu Trường Xuân Phạm Ngọc Lũy. Nhân sự ban đầu được công nhiên xác định :
A: Hoàng Cơ Minh đặc trách thành lập Chiến Khu tại Thái Lan, tức tiền phương, mục đích xâm nhập móc nối với các nhóm kháng cự trong nội địa Việt Nam.
B: Phạm Văn Liễu đặc trách địa bàn hải ngoại, trách vụ Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hải Ngoai. Nhiệm vụ xây dựng đoàn viên cán bộ khắp các quốc gia có người Việt Nam sinh sống để hỗ trợ trực tiếp các công tác xâm nhập của bộ phận chiến khu, vận dụng mọi quan hệ nơi các nước sở tại để hình thành mặt trận quốc tế vận, cô lập cộng sản Việt Nam về mặt ngoai giao, đồng thời vận dụng sự đồng lòng của các chính đảng có khuynh hướng chống cộng trên thế giới vào mục tiêu lật đổ chế đổ chế độ cộng sản tại Việt Nam bằng TẤT CẢ MỌI
HÌNH THỨC.
C: Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đặc trách Vận động Yểm Trợ Tiếp vận (các ông Cao Thế Dung, Trần Minh Công giữ vai trò cố vấn và phát ngôn).
Cuối năm 1981, các ông Hoàng Cơ Minh, Lê Hồng (Trung tá Nhảy Dù), Nguyễn Kim Hườn (Không Quân thiếu tá), Nguyễn Văn Lộc, Trần Thiện Khải (Trung Úy Hải quân), Trương Ngọc Ny (Ðại Úy Nhảy Dù), Huỳnh Trọng (Hải Quân,Thụy sĩ)… đáp máy bay sang Tokyo khởi đầu chuyến di hành bất định về cố hương đầy lãng mạn và không ít sự… liêu trai. Với tôi, đây là những người hùng, không thua kém gì ông Võ Đại Tôn. Những con người kiệt hiệt này nay không còn ai ngoài một Nguyễn Văn Lộc ẩn cư đâu đó và nghe đâu ông Huỳnh Trọng đã nhắm mắt với rất nhiều buồn phiền ở Thuy Sĩ, sau chuyến trở ra hải ngoai 1983 và ở luôn lại Thụy Sĩ làm người mai danh ẩn tích!
Tình hình ban đầu như vậy là quá đẹp. Khối tình ấy sẽ đẹp hơn nhiều nếu như không có sự xuất hiện đăc biệt của ông Hoàng Cơ Định, một chuyên gia thương mại tốt nghiệp tại Pháp, mà như ông Trần Đức Tường, Xứ bộ trưởng Pháp quyền lãnh đạo Âu Châu, tháng 12/1984 từng nói trước mặt chúng tôi: "Là cái yết hầu ung thư trên cơ thể tổ chức!"
Chia lìa lần thứ nhất
Ông Trần Văn Sơn (Trần Bình Nam) đại diện tổ chức Phục Hưng đã lặng lẽ rời khỏi mô hình tập hợp ban đầu dưới tên Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam gồm:
1. Tổ chức Người Việt Tự Do (Nhật).
2. Tổ chức Phục Hưng (Hoa Kỳ).
3. Tổ chức Dân Quân Việt Nam Hải Ngoại (Hoa Kỳ, một phần).
Năm 1982, tại Thái Lan, sau khi Mặt Trận mướn được khu rừng Ubon làm căn cứ, ông Trần Văn Sơn có cảm giác bị loại ra khỏi nhóm đầu lãnh MTQGTNGPVN, mặc dù ông là người sát cánh với anh em Tổ Chức Người Việt tại Nhật ngay từ những nỗ lực đầu tiên. Sự nhẫn nhịn của ông đã vượt giới hạn và tổ chức do ông lãnh đạo chọn thái độ rời tập hợp, không lên tiếng thanh minh thanh nga bất kỳ một lời nào với công luận. Với tôi, đây là thái độ đáng kính phục. Mãi đến khi sự lộn xộn của tổ chức Việt Tân đã gây hỗn loạn môi trường hải ngoai giai đoạn 1992, tổ chức Phục Hưng mới lên tiếng xác nhận đã rời mô hình Mặt Trận/Việt Tân từ 1982.
Tiền bạc ban đầu để chi phí cho chiến khu đến từ một nguồn quỹ có tên là quỹ MIA. Chính phủ Mỹ có yêu cầu phải tìm kiếm những người Mỹ mất tích (còn sống hay đã chết tại Đông Nam Á), quỹ này chi cho Việt Tân những ngân khoản chủ yếu ban đầu. Mặt khác, đảng Tự do của Nhật cũng giúp nhiều phần. Phần còn lại là sự đóng góp của đồng bào và đoàn viên (lúc bấy giờ, trước 4/1982 nguồn kinh phí này chưa dồi dào).
Một số người Mỹ đã cố vấn để Việt Tân làm cuốn băng video "Đường Về Khu Chiến". Cuốn phim của đài SBS thực hiện có sự vỗ tay phụ họa kèm theo của loạt bài nhiều kỳ đăng trên Văn Nghệ Tiền Phong do ký giả Hoàng Xuyên (Hoàng Xuân Yến) thực hiện. Sau này (khoảng năm 2000) ông Yến có một bài trả lời phòng vấn tố cáo Mặt Trận/Việt Tân nặng nề.Với tôi, những tình tiết ông nêu ra trong bài phỏng vấn, sau khi đối chiếu kiểm chứng với những tiết lộ của những người sống sót trong đoàn quân phục quốc lúc bấy giờ, tôi nhận thấy là bản thân ông Yến không biết được nhiều, nên những chi tiết nhận định nhiều phần là đã chỉ là do luận đoán.Thứ hai, thời điểm cần ông lên tiếng đã trôi qua rất lâu… nên sự lên tiếng của ông Yến chỉ còn có một nửa giá trị về những tình tiết lúc diễn ra hoạt cảnh làm cuộn phim. Giá trị nhân cách của nhân chứng gần như không còn hiện hữu.
Cuốn phim ấy có nhiều tình tiết không thựclực lượng có mặt trong cuốn phim 1/3 là lực lượng người Lào kháng chiến H’Mong của tướng Vàng Pao. Phim làm tại rừng Ubon nhưng được thổi phồng là nội địa Việt Nam. Ðây là đoạn phim ghi hình Lễ Công Bố Cương Lĩnh Chính Trị của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam, thời gian ghi hình là cuối năm 1982.
Cuốn phim với sự trình chiếu của SBS Hoa Kỳ đã được nhân bản rất nhiều và ghép với video Ðại Hội Ðồng tâm 30/4/1983 tại Nam Cali qui hội trên 10 ngàn người đón ông Minh về từ chiến khu… làm thành tài liệu tuyên vận gây thành hiệu ứng náo nức mong muốn yểm trợ của hầu hết đồng bào thuyền nhân tỵ nạn cộng sản đang ở những năm đầu lưu vong. Hiện nay, Việt Tân hầu như không muốn nhắc về cuộn phim ấy nữa, nếu không muốn nói là phủ nhận để cố gắng chứng minh lòng chân thành của mình về chủ trương "Tuyệt đối tiến hành đấu tranh bất bạo động để… chuyển hóa đất nước".
Tan tác 2
Suốt từ những tháng 7 đến tháng 11/1984 là sự sóng gió bão bùng cho tổ chức Mặt Trận/Việt Tân.
Ông Phạm Văn Liễu quyền, Tổng vụ Trưởng Tổng vụ hải ngoại, yêu cầu phải minh bạch về thu chi của Mặt Trận/Việt Tân, đây là yêu cầu hợp lý vì ông là người trực tiếp chịu trách nhiệm với đồng bào hải ngoại về những khoản tiền đóng góp to lớn mà đồng bào đã nhiệt thành yểm trợ, nhưng ông Hoàng Cơ Định, vụ tài chánh không đáp ứng!
Ông Trần Minh Công (đại tá Việt Nam Cộng Hòa) Phát ngôn nhân Mặt Trận/Việt Tân tuyên bố nếu không minh bạch, tổ chức có nguy cơ chia hai.
Ông Hoàng Cơ Minh thành lập ra cơ cấu Hội Đồng Kháng Chiến Toàn Quốc, một Hội Đồng gây bất ngờ hoàn toàn cho cánh ông Liễu. Hội đồng ấy ông Minh là chủ tịch và phong ông Lê Hồng thành Tổng Vụ trưởng Tổng vụ quốc nội (thực chất là quốc nội… chưa hề có) . Như vậy, hợp đồng nhân sự ban đầu đã bị vỡ. Ông Phạm văn Liễu, ông Phạm Ngọc Lũy đương nhiên… "sụt hạng quyền bính", xuống đứng ngang hàng với ông Lê Hồng, sẽ bắt buộc phải ngước lên để nhìn ông Minh những khi muốn nói chuyện!
Bác sĩ Nguyễn Chương là người duy nhất được ra vào chiến khu từ Hoa Kỳ, làm con thoi để hòa giải. Yêu cầu của cánh ông Phạm Văn Liễu là những yêu cầu xét ra rất hợp lý, vì dù không nắm chi tiết chuyện tiền bạc, nhưng các Uỷ ban Yểm Trợ trên toàn thế giới báo sơ lược cũng đủ thấy là sức yểm trợ tài chánh khó tưởng tượng nổi. Đồng tiền ấy thay vì trực tiếp lo mục tiêu xâm nhập thì lại phát triển thành rất nhiều các tiệm ăn mang tên chuỗi kinh doanh Phở Hòa, các gara và thậm chí cả bất động sản. (Những vụ án của Mặt Trận Việt Tân với các ông Cao Thế Dung và Nguyễn Xuân Nghĩa giai đoạn 1985 đã là những tư liệu vững chắc để xác định sự lường định về lượng tiền quỹ của cánh ông Cao Thế Dung, Phạm Văn Liễu, Phạm Ngọc Lũy là hoàn toàn có cơ sở. Số tiền công khai công bố tại tòa đã trên 20 triệu, trong khi tiền nhập quỹ đến 70% là tiền quỹ đen không qua qui trình khai báo sở thuế…)
Ông Minh nhất định giữ em mình ở vai trò điều phối tiền bạc và đồng ý sự im lặng bất hợp tác với Tổng Vụ trưởng Phạm Văn Liễu của ông Hoàng cơ Định. Tháng 12/1984 mọi sự hòa giải đều thất bại, ông Minh từ Nhật về Mỹ, công bố quyết định cách chức ông Phạm Văn Liễu, đưa ông cựu thiếu tá phi công Nguyễn Kim Hườn từ khu chiến Ubon về Mỹ nhận vai trò Tổng Vụ Trưởng dưới sự dìu dắt của ông Ðồng Sơn Nguyễn Xuân Nghĩa (chuyên gia kinh tế xuất thân từ Tổng Hội Sinh Viên Paris, từng bỏ Pháp về nước giúp cho Bộ Kinh Tế Việt Nam Cộng Hòa dưới quyền ông Nguyễn Văn Hảo). Tổ chức Mặt Trận/Việt Tân tan rã lần hai, kéo theo 2/3 nhân lực lặn vào im lặng trường kỳ.
Nhiều nước mắt của các đoàn viên đã ngỡ ngàng lăn trên các đôi gò má nhăn nheo, chưa phai màu nắng gió biển mặn. Tôi là một trong những người ấy.
Thay vì tan hàng, tôi cố gắng bám lực lượng chiến khu và tình nguyện xâm nhập Việt Nam mở đường liên lạc nội địa. Quan điểm của tôi lúc bấy giờ là anh em đang chiến đấu luôn là ưu tiên quan trọng nhất. Phải tập trung hết lực cho các anh ấy.
Tôi đã sai lầm vì đã trở thành một nhân tố đắc lực tiếp diễn tấn tuồng lường gạt của tổ chức Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất/Việt Tân.
Sang ngang 3
Bắt đầu giai đoạn tháng 1 năm 1985, sự xuất hiện của ông Ðồng Sơn/Nguyễn Xuân Nghĩa (Vụ Trưởng Vụ Tuyên vận, nay là bình luận gia về Kinh tế trên Người Việt TV) trở thành thường xuyên trên khắp các cuộc vận động của Mặt Trận/Việt Tân ở hải ngoại. Ở Mỹ, cơ sở Mặt Trận/Việt Tân gần như tê liệt; tờ báo Kháng Chiến ông Huỳnh Lương Thiện không còn giữ nhiệm vụ chủ biên. Các anh chị em thuộc tổ chức Người Việt Tự Do rời bỏ Việt Tân hầu hết. Ông Ðỗ Thông Minh giữ im lặng gần như hoàn toàn. Ông Huỳnh Lương Thiện đi lập trang báo độc lập khác.Nhân vật tương đối đình đám của tổ chức Người Việt Tự Do tại Nhật còn sót lại là ông Bùi Minh Ðoàn/Lý Thái Hùng, gắn bó mật thiết với ông Phan Vụ Quang/Hoàng Cơ Ðịnh (fB Dinh Hoang) trong mô hình bếp kiềng hai chân.
Ông Phạm Văn Liễu và Trần Minh Công thành lập tổ chức mới. Ông Cao Thế Dung bắt tay với các ông Nguyễn Hữu Chánh, Nguyễn Văn Chức ở biên thùy Đông Dương. Ông Ðồng Sơn Nguyễn Xuân Nghĩa và ông Trần Xuân Ninh tập trung ổn cố tối đa địa bàn Âu Châu qua vị trí chiến lược là cơ sở Pháp. Cơ sở Pháp là đầu tầu của Âu Châu đã diễn ra một phiên bầu phiếu "bất tín nhiệm Hoàng Cơ Minh hay không ?" vào đầu năm 1985. Số phiếu được bầu gồm các trưởng cơ sở cấp Xứ, (Hà Lan, Ðan Mạch, Na Uy, Bỉ, Pháp, Ý). Nếu chỉ dựa trên số phiếu của các cấp trưởng của các Xứ, thì đương nhiên ông Minh bị loại vì Hà Lan là cơ sở cực thân với cụ Phạm Ngọc Lũy, cơ sở Ý Đại Lợi luôn sát cánh với ông Phạm Văn Liễu. Cơ sở Na Uy trưởng cơ sở có quan hệ thân thiết với ông Phạm Văn Liễu từ Phi Luật Tân lúc mới chân ướt chân ráo từ thuyền lên bờ làm người thuyền nhân bạt xứ. Cơ sở Pháp ông Trần Đức Tường nắm, là người rất khéo câu thời vận, gió chiều nào ngả chiều nấy. Ông Nguyễn Kim và ông Nguyễn Xuân Nghĩa đã đưa đẩy đến kết luận là thành viên ban chấp hành cấp Khu (tức trách nhiệm ban chấp hành Mặt Trận/Việt Tân Âu Châu) cũng có quyền bỏ phiếu! Thế tương quan thành nghiêng ngửa vì lớp trí thức đều có quan hệ từ thời sinh viên với ông Nguyễn Xuân Nghĩa như ông Lê Triệu Ðào, Nguyễn Ngọc Danh, Nguyễn Ngọc Bảo… vốn đang giữ một số trọng trách của Ban chấp Hành Khu Bộ Âu Châu sẽ đương nhiên đi theo tinh thần ông Nguyễn Xuân Nghĩa, nghĩa là ủng hộ ông Hoàng Cơ Minh, loại trừ ông Phạm Văn Liễu. Phiên bầu trở thành nảy lửa dẫn đến suýt ẩu đả nhau trong phòng bầu. Phòng bầu phiếu văng tục lan ra cả bên ngoài cơ sở bí mật của tổ chức trụ đóng ở Antony, ngoai ô nam Paris. Kết quả là chỉ chênh nhau một phiếu. Ông Hoàng Cơ Minh không bị "bất tín nhiêm" như đại đa phần các khu, xứ bộ tại Hoa Kỳ!
Cơ sở Âu Châu sau đó lập tức có sự tách rời của Xứ bộ Ý Đại Lợi. Xứ bộ Ý Đại Lợi đem hết quan hệ ngoại vận của mình xây dựng cho Lực Lượng Biên Thùy Ðông Dương qua trung gian ông Cao Thế Dung và sau này là Nguyễn Hữu Chánh. Xứ bộ Hà Lan đóng băng, duy nhất còn hai đoàn viên là Ðinh Hiền và Ðặng Thành. Xứ bộ Ðức cũng chia hai. Phong trào Yểm trợ Kháng chiến toàn Âu Châu khựng lại như cỗ xe lửa vỡ buồng than. Bắt đầu kéo theo sự lao dốc, phá sản niềm tin của cộng đồng người Việt hải ngoai.Không còn bất kỳ Tổ Tiếp Vận hay Ủy Ban Yểm Trợ nào còn hoạt động!
Từ đây, Mặt Trận/Việt Tân chỉ còn là chống chỏi để tự sinh tồn. Mục tiêu đấu tranh giải phóng được coi như vô phương hiện hữu, có chăng, chỉ là tự đánh lừa nhau, cố giữ cho nhau khỏi qụy ngã.
Trong hoàn cảnh rối bời ấy mới thấy tài cán của Nguyễn Xuân Nghĩa. Ông có cái đầu cực giỏi và một ý chí rất lỳ đòn. Trước bao nhiêu thách thức, ông đã vực dậy các cơ sở từ Âu Châu bật ngược lại Mỹ. Ròng rã suốt bốn năm, ông đã định hình lại tổ chức Việt Tân đứng vững lại sau cơn phong ba bão táp, dù rằng, số đoàn viên đã mất đến hai phần ba trên toàn thế giới.
Nhưng đúng như ông Trần Đức Tường đã nói: "Hoàng Cơ Ðịnh là một cái yết hầu ung thư của cơ thể tổ chức". Dù bản thân ông Trần Đức Tường đã quay mặt với "kẻ nâng đỡ " mình là ông Phạm Văn Liễu, nhận những ân sủng của ông Hoàng Cơ Ðịnh để giữ được vai trò lãnh đạo Âu Châu, Ủy viên Trung Ương đảng với đồng lương yên ấm, câu nói ở "buổi giao thời" của ông vẫn nguyên giá trị. Ông Hoàng Cơ Ðịnh có thể mua bán được ông Trần Đức Tường hay ông Nguyễn Kim Hườn… chứ không cách gì có thể mua bán được ông Nguyễn Xuân Nghĩa hay ông Nguyễn Trường Lưu.
Cuối năm 1988 Tổng Vụ Hải Ngoại MTQGTNGPVN/Việt Tân xuất hiện một vụ mới, đó là Vụ Kế Hoạch. Người nắm Vụ Kế Hoạch là ông Nguyễn Xuân Nghĩa và đương nhiên người bổ nhiệm là ông Nguyễn Kim Hườn/Tổng Vụ trưởng. Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt. Ông Kim Hườn không bao giờ đủ khả năng để điều hành Tổng Vụ nếu không có quân sư là Ðồng Sơn Nguyễn Xuân Nghĩa hao tâm tổn trí. Việc lập ra vụ Kế Hoạch, anh em Việt Tân trung cấp Âu Châu hình dung ngay đến một vụ đảo chánh nội bộ sắp diễn ra, hoặc ông Nguyễn Xuân Nghĩa sụp hầm hoặc ông Hoàng Cơ Ðịnh ra chầu rìa! Cuối năm 1988, hơn ai hết, ông Nghĩa phải biết là ông Minh đã… sinh thì ở Lào! Một người có trí năng cao như ông Nghĩa, sẽ không thể chịu bịt mắt bởi ông Hoàng Cơ Ðịnh, rằng ông Hoàng Cơ Minh "vẩn sống vẫn lãnh đạo". Ở vị trí Vụ Kế Hoạch, gần như ngang quyền Vụ Tổ Chức do ông Ðịnh nắm, cho phép ông Nguyễn Xuân Nghĩa có quyền đòi vào căn cứ chiến khu để lượng định sự việc, dù rằng điều này, ông Hoàng Cơ Ðịnh không bao giờ muốn!
Giữa 1989 ông và Trường Lưu, vụ Tuyên Vận, hai cái đầu giỏi nhất của Việt Tân giai đoạn 1985/1989 lặng lẽ rời tổ chức sau chuyến thị sát chiến khu Ubon. Trong chuyến đi có Trần Đức Tường, một thiếu tá Quân Y Dù kẹt lại Việt Nam 1975 nhưng chỉ phải cải tạo có vài ba năm rồi ra mở phòng mạch ở vùng Bảy Hiền, một người rất khéo nói và giỏi ngậm hột thị khi cần, để ấm thân trong mọi hoàn cảnh.
Biệt ly 4
1990/95, Bộ phận chiến khu Ubon đã hoàn toàn tan nát sau ba cuộc xâm nhập vũ trang hết sức ngớ ngẩn. Ðông Tiến 1 năm 1986 thất bại, chết gần chục người và hầu hết là bị bắt tại Pleiku! Ðông Tiến 2 tháng 8 năm 1987 gần hai trăm đảng viên xâm nhập cùng ông Minh theo kế hoạch của Lê Phú Sơn. Ông Minh tự sát tại đường 9 Nam Lào sau hơn tháng trời bị vây đuổi đòi bắt sống bởi lực lượng quân đội cộng sản Quân khu 9. Tử thương vài chục người, hơn trăm đảng viên sống sót bị bắt cầm tù từ 6 đến 18 năm! Ðông Tiến 3 (1989) tung gần trăm quân vào biên giới Lào/Thanh Hóa bị bắt sạch. Ðợt Ðông Tiến này phải đưọc hiểu là đợt thí quân. Quân đi mơ hồ mục tiêu !!! Phải chăng, đoàn quân này đưọc quyết định phải chết, thay vì để tồn tại trở ra hải ngoại, sợ sẽ làm lộ các bí mật của cái gọi là chiến khu Việt Tân?!
Tại hải ngoại, vai trò lý thuyết của Việt Tân chủ yếu đặt trên vai vị bác sĩ mổ xẻ nổi tiếng của Chicago. Phó Tổng vụ trưởng Trần Xuân Ninh với những cái đầu đặc biệt nổi lên từ miệt thấp của quả đất. Nam Dao từ Úc Châu và nhóm khôn lỏi ở Paris đứng đầu bởi Lý Quảng/Nguyễn Ngọc Ðức (phù thủy của tổ chức Liên Minh Việt Nam Tự Do, nhân lực dắt mũi của Hội Chuyên Gia). Tiến đến 1996/1997, Nguyễn Ngọc Ðức từ một chi bộ Orsay/Paris đã phăng phăng trèo vào Trung Ương đảng. Một khuôn mặt mà hầu hết những thành phần trí thức sinh viên của Tổng Hội Sinh Viên Paris đều coi thường ra mặt.
Tổ chức Việt Tân với sự sát cánh của ông Trần Xuân Ninh, ông Nguyễn Ngọc Ðức và bà Nam Dao, ông Ðỗ Ðăng Liêu (cựu sinh viên Tổng Hội Paris) cố gắng phát triển cật lực trong giới trẻ ở Úc châu, xoay quanh trục nhân lực Nguyễn Hoàng Thanh Tâm (cháu Hoàng Cơ Ðịnh), mong dùng các cơ sở này để vận động ngược lại cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ. Khối u tình này duy trì được đến sau năm 2000 và xảy ra tan tác sau lần va động "chệch hướng hay chuẩn hướng" 2003/2004. Ðây là giai đoạn đấu tranh nội bộ gay gắt giữa cánh ông Hoàng Cơ Ðịnh, Nguyễn Ngọc Ðức với cánh ông Trần Xuân Ninh về quan điểm rất mới của Việt Tân, "hợp tác, đối thoại để chuyển đổi hòa bình"! Bà Nam Dao cùng gần trăm đoàn viên rời tổ chức theo với bước chân rã rời "không chệch hướng" của ông Trần Xuân Ninh. Việt Tân còn trơ lại vài hàng binh tôm tướng cá với Lý Quảng Nguyễn Ngọc Ðức gần như làm chủ tế.
Ðể mở đường bế tắc, ông Nguyễn Ngọc Ðức và người tình là bà Nguyễn Thanh Vân tận dụng quan hệ với RSF (Reporters Sans Frontières) vác đả cẩu bổng sang Thái Miên. Binh đội tại Thái Miên những năm 2006/2007 có lúc lên đến những 5 ông bà ủy viên Trung ương đảng, thậm chí có lúc cả bốn ông Trung ương đảng đều xâm nhập vào nam Việt Nam cho một phi vụ "rải vài ngàn tờ truyền đơn"! Bốn bị bắt ba! Cãi nhau, đổ tội… ì xèo trong tòa nhà B34 Sài Gòn. Vài tháng thả trắng sau những biên bản khó hiểu !
Tống biệt 5
Truyền thông mở như một cơn lốc quét, phủ lên bối cảnh sinh hoạt truyền thông ở Việt Nam một màu sắc lấp lánh nhiều tích cực. Phong trào viết blog tự phát bùng lên ở Việt Nam. Việt Tân đã nắm bắt rất nhanh tình hình và làm ngay những cuộc liên đới với các anh chị em này. Cả hai bên đều là những con cá đang khát nước. Anh em nội địạ ráp lại với những người hoạt động dân chủ ở Thái đã hoàn toàn tin tưởng những người cộng tác. Công sức của RSF trong mục tiêu thiết lập những nhóm truyền thông độc lập đã được đánh tháo sang hết cho một tổ chức có tên là Việt Tân. Các khóa học về nhân quyền, dân sự… đã được an ninh cộng sản Việt Nam theo dõi và bắt gọn dưới danh nghĩa "hoạt động khủng bố với Việt Tân".Cả Trần Huỳnh Duy Thức cũng sập bẫy. Cả Tiến Trung, cả Lê Công Ðịnh… những đứa con kiệt xuất chưa đánh được đòn phép nào vào mặt chế độ... đã bị sập hầm !
Trong cái họa nẩy ra cái phước. Một nhóm nhỏ trong những thành phần lãnh đạo Việt Tân chung công tác ở Thái Miên đã sáng suốt nhận ra vấn đề bế tắc nằm ở đâu. Cuộc chia tay thứ 5 đã diễn ra và trang Dân Làm Báo đĩnh đạc trưởng thành trong cay đắng, từ những con người đã đặt cược cả cuộc đời mình vào với vận mệnh Việt Tân, sự bẽ bàng nhận ra chân tướng nhau đã làm nảy sinh ra một tập hợp mới, ly khai dứt khoát với cái tên đầy màu sắc tương lai nhưng lại chất chứa nhiều hầm chông bẫy độc. Khối kỳ vọng của RSF vào Việt Nam cũng từ đây sinh thành hai dòng chảy.
Lìa xa 6
Vận dụng sự mở cửa của mạng truyền thông internet. Những người đặc trách phát triển quốc nội của Việt Tân hải ngoại đã liên kết với những nhân lực có tiếng nói mang tinh thần phản kháng ở Việt Nam, đặc biệt là Hà Nội. Một nhóm nhân lực được móc nối và hoạt động khá rộng ở Hà Nội nói riêng, miền Bắc nói chung. Bà Trần Khải Thanh Thủy là một nhân lực tiêu biểu. Tính khí ngang tàng của bà đưa bà đến cửa nhà tù và phải vào tận Trại 5. Một trại Trung Ương khét tiếng từ thời còn mang tên quần thể nhà giam Ðầm Ðùn Lý Bá Sơ 1954. Giết bà không được, nhốt chẳng ích gì mà thả ra ở Việt Nam thì càng to chuyện! Tương kế tựu kế an ninh cộng sản tống xuất bà sang Mỹ, gây thêm thanh thế cho Việt Tân, vốn là một tổ chức chính trị hải ngoai mà an ninh cs Việt Nam biết tỏng tòng tong là hữu danh vô thực. Ðiều bất ngờ là tính cách ương ngạnh dàng trời của bà Trần Khải Thanh Thủy đã tạo ra rất nhiều khó xử cho trung ương Việt Tân để sau hai năm, ngựa Hồ tung vó lên hướng bắc, chim Việt soải cánh về đàng nam. Từ mặt nhau với những nỗi đau cay cào xé gan mật. Sự chia tay này cũng ảnh hưởng đến việc "dứt áo ra đi" của vị bác sĩ được coi là giỏi giang nhất, còn sót lại của trung ương Việt Tân: Nguyễn Trọng Việt.
Việt Tân sau 30 năm, người tài thi nhau ngã bổ ngửa. Từ Phạm Văn Liễu, Trần Minh Công, Phạm Ngọc Lũy đến Nguyễn Xuân Nghĩa, Nguyễn Trường Lưu! Từ Nam Dao/Phan Văn Hưng đến Trần Xuân Ninh và rồi đến Ðặng Thanh Chi, Huỳnh Ngọc Phước, Nguyễn Trọng Việt… Giờ điểm lại, lôm côm những Nguyễn Ngọc Bảo, Nguyễn Ngọc Ðức, Trần Đức Tường, Nguyễn Thanh Vân, Nguyễn Quốc Quân… với con em gia đình dòng họ Hoàng Cơ, cắm cúi điều hành tổ chức gần giống như một công ty hàng quán thương mại!
Thế trận Nhân quyền!
Cuối năm 1998, khi vừa bị trục xuất về Pháp, trong những lần điện đàm với ông Nguyễn Kim Hườn, tôi có đề cập đến một sự cần thiết về việc hình thành một thế trận nhân quyền ở hải ngoai. Lúc ấy, tổ chức Việt Tân, nếu tập trung thực lòng cho công tác nhân quyền, sẽ mang lại nhiều lợi ích cho quê hương đất nước. Tiếc rằng, ông Kim đã tỏ ý rất coi thường, ông nói "…giờ này, chúng ta sắp thành công, tập trung vào công tác nhân quyền làm gì!". Giờ đây, 15 năm đã trôi qua, chữ "sắp thành công" của ông không biết phải định nghĩa thế nào, nhưng hành động lấn sân từ sinh hoạt chính trị tràn sang lãnh vực nhân quyền lại phơi bày quá sống sượng trong những tháng vừa qua.
Bản chất sức lực của hoạt động đấu tranh nhân quyền là độc lập phi đảng phái. Càng dính líu đến các tổ chức chính trị, đảng phái… hoạt động đấu tranh nhân quyền càng giảm ý nghĩa trước dư luận thế giới tự do. Ðáng ra, việc các nhân sĩ từ Việt Nam sang điều trần về Nhân quyền ở các quốc hội hay ở trụ sở Liên Hiệp Quốc, dù có là đảng Việt Tân giúp sức, cũng nên phải giấu đi cái gốc gác là đảng chính trị Việt Tân chi phối. Ðàng này các ông các bà kéo đến ba bốn ông Trung Ương đảng để chụp hình chung ở Genève! Cũng vậy, làm điều trần cho các blogger từ Việt Nam sang, nhưng các ông đặt ghế chủ tịch đảng Việt Tân ngồi ngang với một nghị sĩ Mỹ, cả hai đều cùng vắt vẻo kiểu chân số 5 quyền lực, đối diện là tội nghiệp bốn năm ông bà blogger đến từ Việt Nam, xúm xít ngồi ở một băng ghế chung! Hơn hai mươi năm lăn lóc trong sinh hoạt đấu tranh từ thượng vàng đến hạ cám, từ lên voi xuống lưng bò, tôi chưa từng bao giờ nhìn thấy cảnh điểu trần như vậy!
Ðiều trần ấy là điều trần cho ai? Ðiều trần với ai? Ðiều trần vì quyền lợi gì? Quyền lợi "credit" của Việt Tân hay quyền lợi của anh chị em truyền thông tự do ở Việt Nam? An ninh cộng sản Việt Nam có ý gì khi để các anh chị em ấy thong dong sang Mỹ với mỗi người vừa tròn một phút đề… làm điều trần!Ðiều trần 1 phút thì điều trần việc gì? Ðó là lời mời của Quốc hội Mỹ to đùng hay chỉ là trò chơi chính trị bơm thổi credit cho một bà dân biểu Mễ cùng tổ chức Việt Tân? Anh em trong nước chấp nhận thật nhiều thử thách để chỉ được nói 1 phút trước rừng ngôn từ của hàng mấy trăm quân bài do hàng trăm nghị sĩ tranh giật lợi quyền? Ai sẽ trả cái giá khắc nghiệt cho họ sau cuộc phiêu lưu vì tấm "paneaux vĩ đại quốc hội Mỹ"? Tại sao an ninh cộng sản ưu ái cho những người Việt Tân tổ chức mời đi, trong khi lại nghiêm khắc truất quyền xuất cảnh của facebooker Anh Chí chỉ vài tuần sau đó, bất chấp lời mời của Bộ Ngoai Giao một quốc gia cực kỳ thân thiện với Việt Nam Cộng Sản là Thụy Ðiển dành cho Anh Chí?
Liệu có cần phải viện dẫn những cuộc xâm nhập 1986/1987/1989 từ Thái Lào và sau 1991 từ Ðông Âu để dẫn chứng "khả năng siêu việt" của đảng Việt Tân… cùng sự ma mãnh thổi phồng "kẻ thù ảo" của đối phương cộng sản hay không?
Với đồng tiền dồi dào của tổ chức ban đầu để lại, việc các ông bà Việt Tân chia sẽ cho anh em hoạt động đấu tranh nội địa là việc hết sức tự nhiên, nếu không muốn nói là việc bắt buộc. Chỉ mong rằng các ông bà hãy đặt quyền lợi của tổ chức thành thứ yếu, sau quyền lợi của cuộc đấu tranh chung. Ðược vậy, chẳng ai trách giận các ông bà làm gì. Cuộc đời này, ai là người nắm chặt tay được cả cuộc sống mình? Mở lòng ra sẽ thấy tình người cao rộng và thật sự có ý nghĩa.
Lịch sử: Mục tiêu và Trách Nhiệm
Một quá trình ba mươi năm. Tháng 12 năm 1982 lễ tuyên thệ đảng Việt Tân cho ông Dương Văn Tư cùng mấy chục đảng viên khác đã xác định trách nhiệm của một tổ chức chính trị đối với lịch sử nói chung, đối với những thành viên tuyên thệ nói riêng. Tổ chức ấy ngày nay vẫn y xì tên gọi và nguyên bản lá cờ hoa mai. Ðồng tiền đồng bào đóng góp đại đa phần đã thành các quán ăn sầm uất suốt gần 30 năm. Sự liên tục ấy không cách gì có thể phủ nhận. Chỉ có những con người vô văn hóa mới cố chối bỏ lịch sử ấy, trong khi vẫn dùng đồng lương có từ lịch sử ấy mà ung dung vung vẩy giữa đời.
Vật đổi sao dời, có thể các ông thay đổi phương lược chiến đấu, nhưng việc phủ nhận công lao máu xương của lớp khai phá là hành vi bất nghĩa. Việc không hề đoái hoài đến những kẻ đã vì Việt Tân ban đầu mà phải chết thảm trên đường xâm nhập, phải tù tội từ hàng 6 năm đến 18 năm… là hành vi gì nếu không là hành vi bất nhân bất nghĩa?
Khi chưa đủ can đảm để rạch ròi ân nghĩa với anh em mình và với đồng bào hải ngoại, thì việc ồn ào đấu tranh của các ông bà chỉ mang được một nửa phần ý nghĩa mà thôi.

Khả năng phán đoán, tư duy chiến lược… không là những món hàng cợt đùa vô trách nhiệm. Trong môi trường đấu tranh nhân quyền, các ông bà đã có những lúc cực lực sỉ vả những người đấu tranh, gọi họ là cộng sản, bủa vây tất cả các bước đi của họ. Anh em họ trong nhà tù A20 Phú Yên làm cuộc nổi dậy, tin tức đến tận tay các ông bà nhưng các ông bà lặng thinh. Hàng trăm người tù thét gào ấy, chỉ duy có tổ chức ông Võ Văn Ái lăn xả trên truyền thông quốc tế để bảo vệ họ. Còn các ông bà thì đứng cười, ra chỉ thị tất cả các mạng báo chí của Việt Tân (vốn bao trùm hải ngoại lúc ấy (1994/1995) hoàn toàn im lặng!
Tôi là nhân chứng trực tiếp của sự vụ ấy, nay xin hỏi giữa công luận rằng các ông bà là ai, và liệu sẽ có một cuộc nổi dậy đấu tranh nhân quyền ở Việt Nam sẽ bị các ông bà tận lực bưng bít nữa không ?
Ðó là lý do chúng tôi chủ trương thành lập và hỗ trợ các mô hình đấu tranh nhân quyền phi đảng phái, đặc biệt, phi Việt Tân.

Sunday, May 24, 2015

Hoạt động sinh viên thời mât nước

Bà HLC gởi bài về A17 rất hấp dẫn, thế nào cũng gây sóc cho nhiều người. Tôi biết 1 vài csv Luật quậy, lúc cuối 75 nắm BCH CSQG ĐôThành thay thế tướng Trang Sĩ Tấn. Một Ông nữa cũng là tay quậy ở Đại Học Minh Mạng bò lên chức Giám Đốc tại Bộ KT, lúc mất nước ở lại, do nhu cầu cải tổ để được hội nhập được chính quyền được  CS cho bò đến chức Phó Khoa Trưởng Đại Học Luật Khoa!
LP
rom: Sent: Sunday, May 24, 2015 10:32 AM
Subject: FW: Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo-BAN A 17 ĐỐI ĐẦU VỚI THÀNH ĐOÀN CỘNG SẢN

Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo
BAN A 17 ĐỐI ĐẦU VỚI THÀNH ĐOÀN CỘNG SẢN

LGT: Hôm nay chủ nhật tháng Năm, trời rất đẹp. Phải chi con người bớt ham mê thất tình lục dục thì có lẽ thế giới hòa bình hơn nhỉ? (cười).  Lần giở trang sách cũ, hôm nay Hoàng Lan Chi giới thiệu Chương 13 của cuốn “Mặt Trận Đại Học Thời VNCH” của Bạch Diện Thư Sinh, là chương hấp dẫn nhất với HLC vì  đó là chương nói về ban A 17Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo đã thiết lập ban A 17 để chống lại sự thâm nhập và lũng đoạn hàng ngũ sinh viên của cộng sản qua Tổng Hội Sinh Viên. Hồi tháng Một, sau khi HLC giới thiệu sách, nhiều độc giả gửi thư muốn mua vì họ không tìm thấy địa chỉ mua. HLC trả lời rằng tác giả cho biết in 400 cuốn nhưng bạn bè giữ, phân phối nên không còn nhiều, do đó không giới thiệu địa chỉ mua sách trong bài Điểm sách của HLC nữa. Tác giả giới thiệu sang bạn để họ gửi sách cho những độc giả của HLC. Tác giả cũng đắn đo không muốn in thêm dù vài người sẵn sàng đứng ra lo  hết từ A đến Z. Có lẽ vì chút thiện cảm nào đó dành cho “cựu sinh viên Khoa Học” Hoàng Lan Chi ( người đã điểm sách Mặt Trận Đại Học rất đàng hoàng) mà “cựu  sinh viên Bạch Diện Thư Sinh” đã gửi Bài 13 cho Hoàng Lan Chi để phổ biến rộng rãi. Bài này đã được HLC gửi đăng trên Bút Tre nguyệt san trong mục Trò Chuyện với Lan Chi. Cũng xin nhắc lại, tác giả theo lối viết của một vài học giả trước 75 và VNCH chưa phổ biến ( I ngắn và Y dài), xin đừng ngộ nhận là tác giả “viết theo kiểu chữ VC” nhé. Hoàng Lan Chi có suy nghĩ vầy: phải chi ban A 17 cùng nhau họp mặt với sự hiện diện của các cựu Chủ tịch hay phó CT Tổng Hội Sinh Viên phe quốc gia vào một ngày đẹp tời nào đó ở Nam CA nhỉ? Hoàng Lan Chi rất  ít khi dự các đại hội này nọ dù thân hữu ở xa về Nam CA luôn đề nghị mua vé mời HLC dự đại hội của họ, nhưng với buổi họp mặt A 17 thì HLC sẽ đến. Có lẽ vì ...muốn nhớ lại thuở sinh viên (cười). Mời bạn hữu xem nhé.


BAN A  17  ĐỐI ĐẦU VỚI THÀNH ĐOÀN CỘNG SẢN

Ban A 17 là một ban công tác mới mẻ thuộc Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo Việt Nam Cộng Hòa, thành lập vào cuối năm 1971, với nhiệm vụ chính là đánh bại Thành Đoàn Cộng Sản, giải tỏa áp lực của tổ chức Cộng Sản này tại các trường học, nhất là tại Đại Học Sài Gòn.

I.              Nguyên do thành lập Ban A 17

Từ năm 1966, Thành Đoàn Cộng Sản tăng cường cài thêm nhiều cán bộ vào Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn và một số phân khoa lớn thuộc Đại Học Sài Gòn. Sau khi nắm được Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn và ban đại diện sinh viên các phân khoa lớn, họ ngang nhiên và liên tục phát động tranh đấu dưới nhiều hình thức, quậy phá trong trường học, bạo loạn ngoài đường phố.
Tình hình rối loạn đến nỗi ông giáo sư “ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản” Lý Chánh Trung đã “hồ hởi phấn khởi” mô tả một cách mỉa mai trong cuốn “Những Ngày Buồn Nôn”của ông như sau: “Suốt tuần qua, trung tâm thành phố Saigon đã biến thành một bãi chiến trường để cho mấy ông Triệu tử Long nho nhỏ mặc sức tung hoành…Kết quả thực là ngoạn mục: Khói lựu đạn cay mịt mù trước Dinh Độc Lập, hàng rào kẽm gai chằng chịt trên các nẻo đường như những tràng hoa tang tóc nền dân chủ” (Lý Chánh Trung. Những Ngày Buồn Nôn. Bài 6. Khóc Đi Con. Trang 40)”.

Trước tình hình ấy, nhà trường thì lúng túng, tập thể sinh viên hoang mang, đang khi lực lượng Cảnh Sát phải hết sức vất vả hành quân giải tỏa những cuộc biểu tình gây rối loạn và truy lùng những tên cán bộ cốt cán thuộc Thành Đoàn Cộng Sản.
Với nỗ lực vượt bực, Cảnh lực cũng đã tóm được một số những tên cán bộ cầm đầu và chuẩn bị truy tố bọn họ ra trước pháp luật.

Trớ trêu thay, ngay lập tức có một số ông to bà lớn, cả đạo lẫn đời, hùa theo những thành phần phản chiến, thiên tả, trong và ngoài nước, lên tiếng phản kháng chính quyền và bênh vực cho bọn cán bộ Thành Đoàn Cộng Sản. Việc làm này, vô hình trung, như choàng thêm vòng hoa chiến thắng lên cổ bọn cán bộ Thành Đoàn Cộng Sản đội lốt sinh viên, đồng thời cổ võ họ tiếp tục hoạt động chống phá chính quyền VNCH.
Sang năm 1971, Cộng Sản ra lệnh cho Biệt Động Thành thi hành 2 vụ ám sát nhằm vào 2 đối tượng thuộc đại học, khiến cho tình hình an ninh Đại Học Sài Gòn càng ngột ngạt, căng thẳng hơn: Vụ thứ  nhất xẩy ra ngày 28-6-1971, 2 tên Việt Cộng thuộc Biệt Động Thành T4 (Ban An Ninh Đặc Khu Sài Gòn – Gia Định) bắn chết sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật, chủ tịch Ban Đại Diện Sinh Viên Luật Khoa, ngay tại hành lang trước cửa phòng ban đại diện sinh viên. Vụ thứ hai xẩy ra ngày 10-11-1971, 2 cán bộ Biệt Động Thành Cộng Sản liệng bom vào gầm xe và giết chết GS. Nguyễn Văn Bông, viện trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, khi xe chở Giáo Sư đang chờ đèn đỏ ngay tại ngã tư Cao Thắng – Phan Thanh Giản.

Vụ ám sát Giáo Sư Nguyễn Văn Bông và sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật xẩy ra giữa thanh thiên bạch nhật ngay trung tâm Thủ Đô Sài Gòn, đã giáng những đòn choáng váng vào các cơ quan an ninh và các viên chức có trách nhiệm.
Để đối phó với tình hình này, Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình, tư lệnh Cảnh Sát Quốc Gia kiêm đặc ủy trưởng Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo, đã gọi Ông Nguyễn Thành Long, biệt cục trưởng Campuchia, đang công tác tại Nam Vang về và giao cho ông chức vụ phụ tá đặc ủy trưởng đặc trách công tác Ban A 17, đối đầu trực diện với Thành Đoàn Cộng Sản.

II. Đối thủ của Ban A 17

Đối thủ của Ban A 17 là Thành Đoàn Cộng Sản.
Thành Đoàn thuộc Đoàn Thanh Niên Lao Động Hồ Chí Minh, nay là Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, có nhiệm vụ vận động thanh niên nội thành Sài Gòn – Gia Định; trong bài này, gọi tắt là Thành Đoàn Cộng Sản.

1.    Tổ chức
Chỉ huy
Cấp chỉ huy cao nhất của Thành Đoàn Cộng Sản vào thời điểm thành lập Ban A 17 là Trần Bạch Đằng. Lúc đó, Trần Bạch Đằng nắm chức Bí Thư Đặc Khu Ủy Sài Gòn Gia Định. Từ năm 1965, ông ta đã được giao cho nhiều chức vụ quan trọng, như: Tuyên huấn, trí vận, Hoa vận và thanh vận (tức thanh niên, sinh viên, học sinh vận), đồng thời phụ trách Ban Cán Sự Nội Thành là tiền thân của Thành Ủy Sài Gòn – Gia Định. Thành Đoàn Cộng Sản là mũi nhọn của công tác thanh vận phối hợp với trí vận.

Hệ thống chìm
Hệ thống chìm nằm trong vòng bí mật, chia thành các chi bộ, mỗi chi bộ có bí thư chi bộ phụ trách một hay vài ba phân khoa đại học. Hệ thống chìm chỉ huy hệ thống nổi.
Vào khoảng năm 1971, hệ thống chìm bao gồm:
Ban Chấp Hành Thành Đoàn: Bí thư: Phan Chánh Tâm (Năm Pha, Ba Vạn). Phó bí thư: Phạm Chánh Trực và Lê Mỹ Lệ (Năm Trang).
Thường vụ: Trương Mỹ Lệ (Tư Liêm, Mười Trương), Nguyễn Văn Chí (Bảy Điền, Sáu Chí), Nguyễn Ngọc Phương (Ba Triết), Trang Văn Học (Năm Tranh).
Đoàn ủy sinh viên: Nguyễn Ngọc Phương, Trầm Khiêm (Hai Lâm), Dương Văn Đầy (Bảy Không, Ba Niên), Nguyễn Văn Sự, Lê Công Giàu và Trần Thị Ngọc Hảo (Tư Tín).

Hệ thống nổi
Hệ thống nổi gồm các cán bộ đội lốt sinh viên thuần túy, hoạt động công khai, hợp pháp. Họ là các Đảng viên, Đoàn viên, Hội viên (Đảng viên Đảng Cộng Sản VN, Đoàn viên Đoàn Thanh Niên Nhân Dân Cách Mạng, Hội viên Hội Liên Hiệp Thanh Niên VN, bao gồm Hội Liên Hiệp Sinh Viên Giải Phóng và Hội Liên Hiệp Học Sinh Giải Phóng Miền Nam VN). Các sinh viên Việt Cộng này được lệnh tìm mọi cách để nắm lấy Ban Chấp Hành Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, Đại Học Xá Minh Mạng, Đại Học Vạn Hạnh, Đoàn Sinh Viên Phật Tử và ban đại diện sinh viên các Phân Khoa Đại Học Sài Gòn, nhất là các phân khoa lớn như Văn Khoa, Luật Khoa, Khoa Học, Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp (Nông Lâm Súc), Y Khoa, Dược Khoa…
Phải nhìn nhận số cán bộ Thành Đoàn Cộng Sản hoạt động trong đại học không đáng kể, song họ được tổ chức và lãnh đạo chặt chẽ, được học tập kĩ lưỡng và hoạt động với nhiệt tình cách mạnh khá cao cho nên họ đã lần lượt khống chế được một số tổ chức sinh viên công khai, hợp pháp, trong khoảng 5 năm liên tục.
Họ đã nắm được Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn 4 nhiệm kì liên tiếp: 1966-67:   Hồ Hữu Nhựt, 1967-68:  Nguyễn Đăng Trừng, 1968-69:  Nguyễn Văn Qùy, 1969-70: Huỳnh Tấn Mẫm.
HHH ọ cũng nắm được Đại Học Xá Minh Mạng với chủ tịch ban đại diện là Huỳnh Tấn Mẫm (1969-70), Nguyễn Xuân Thượng (1970-71), Lê Thống (1971-72). Với vị thế này, bọn họ dùng đại học xá để chứa chấp đồng chí, đồng bọn, rồi biến nơi đây làm bộ chỉ huy và điểm xuất phát nhiều cuộc đấu tranh, xuống đường.
Cũng vào khoảng 1970, Thành Đoàn Cộng Sản nắm được ban đại diện sinh viên tại Đại Học Vạn Hạnh và các phân khoa lớn như Khoa Học, Văn Khoa, Luật Khoa, Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp, Đoàn Sinh Viên Phật Tử.

2.    Hoạt động của Thành Đoàn Cộng sản 
Vì nắm được ban đại diện sinh viên, họ có thể gây áp lực lên cả khoa trưởng và các giáo sư, nhất là sau mấy vụ đặc công Cộng Sản ám sát Giáo Sư Y Khoa Lê Minh Trí, bộ trưởng Bộ Giáo Dục, Giáo Sư Trần Anh, khoa trưởng Y Khoa và Giáo Sư Nguyễn Văn Bông, viện trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh.
Cũng vì nắm được những tổ chức công khai, hợp pháp kể trên, Thành Đoàn Cộng Sản đã phát động nhiều cuộc đấu tranh, chống đủ thứ, đòi đủ thứ…bằng nhiều hình thức từ ôn hòa, hợp pháp tới bạo động:  bãi thi, bãi khóa, diễn thuyết, hội thảo, tuyên cáo, kiến nghị, triển lãm tội ác chiến tranh, văn nghệ, dựng tượng Nhất Chi Mai rất lớn ngay tại hành lang Giảng Đường 4 Văn Khoa. Chúng liên tục tổ chức các cuộc xuống đường, đốt phá, phá, cản trở giao thông, gây rối trị an ngay trên các đường phố Sài Gòn; thậm chí còn tổ chức những vụ giết sinh viên, ám sát giáo sư.


III. Ban A 17

1.             Vài lời trần tình
     Tất cả quân nhân các cấp cũng như tất cả viên chức chính quyền lớn nhỏ của nước Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đều có quyền hãnh diện vì đã phục vụ chính nghĩa chiến đấu tự vệ, bảo vệ Miền Nam tự do, chống lại Cộng Sản Bắc Việt muốn nhuộm đỏ Miền Nam. Cho tới nay, hầu như tất cả mọi ban ngành, mọi binh chủng, mọi hoạt động, mọi thành tích của các thành phần quân, cán, chính, đều đã được phổ biến công khai trước dư luận, trước lịch sử.
Riêng ngành an ninh, tình báo mang tính bí mật đặc thù tự bản chất, phải tuân thủ những nguyên tắc bảo mật nghiêm ngặt. Khốn thay, “ngày sập Trời” 30-4-1975 đã xẩy ra, CSBV vi phạm Hiệp Định Paris 1973 bằng cách dùng bạo lực quân sự để cưỡng chiếm VNCH, cuốn theo chiều gió hệ thống tổ chức của một quốc gia trong chớp mắt, nhưng tất cả cơ sở, nhân sự hầu như còn nguyên vẹn, nhiều tài liệu mật chưa kịp tiêu hủy! Kẻ thắng trận xử dụng cơ sở, khai thác tài liệu và đầy ải nhân sự VNCH trong các trại tập trung cải tạo khổ sai hàng chục năm. Trong chốn lao tù nghiệt ngã đằng đẵng ấy, làm sao có thể bảo tồn được tất cả mọi nguyên tắc, giữ mãi được tất cả mọi bí mật?
Tuy không có thể giữ được tất cả mọi nguyên tắc, bảo toàn được mọi bí mật, nhưng chúng tôi biết chắc chắn Ban A 17 vẫn còn giữ được một số bí mật nhân sự và bí mật chiến thuật công tác. Những bí mật ấy sẽ mãi mãi “sống để bụng, chết mang theo”.
Vì lẽ đó, về Ban A 17, chúng tôi tự chế sẽ chỉ nói những gì xét thấy bất cứ ai quan tâm cũng đều có thể biết được mà thôi.

2.    Mục tiêu công tác 
     Như đã trình bày, mục tiêu của Ban A 17 là đánh bại Thành Đoàn Cộng Sản, giải tỏa áp lực của tổ chức Cộng Sản này tại các trường học, nhất là tại Đại Học Sài Gòn. Thắng lợi của Ban A 17 sẽ giúp tái lập kỉ cương trường ốc, mang lại yên bình thuận lợi cho việc học hành và các sinh hoạt học đường lành mạnh của sinh viên học sinh.

3.Nhân sự
     Vì là công tác thuộc môi trường đại học cho nên tất cả nhân viên Ban A 17, cán bộ cũng như nhân viên khế ước, đều là những sinh viên đã tốt nghiệp hoặc sắp tốt nghiệp đại học, thuộc đủ mọi phân khoa.
     Đến nay, mái tóc của tất cả nhân sự Ban A 17 thuở xưa đều đã điểm sương, đã bạc màu. Tất cả đã rút chân ra khỏi giang hồ và muốn được sống những năm tháng còn lại thật bình yên. Hãy để cho “Những chiến mã một thời chinh chiến, một thời phiêu lãng”.

4.Tình hình

       Ban A 17 “ra quân” chiến đấu trong Mặt Trận Đại Học trước một tình hình không mấy thuận lợi vì chẳng những phải đối phó với một đối thủ lợi hại là Thành Đoàn Cộng Sản mà còn phải vượt qua một số trở ngại nội tại.

Phải thượng tôn pháp luật

Chế độ tự do, nền tự trị đại học và tinh thần thượng tôn pháp luật vốn là ưu điểm của các xã hội Âu Mĩ có truyền thống dân chủ đã ăn sâu trong xương thịt. Thế nhưng, ở nước ta, giữa cuộc chiến ác liệt chống kẻ thù hung hiểm Cộng Sản, ông đồng minh thì “đồng sàng dị mộng”, coi như VNCH tứ bề thọ địch, thì những thứ tự do tốt đẹp, những nguyên tắc pháp luật nghiêm túc đó sẽ bó tay bó chân các cơ quan an ninh và trở thành tấm khiên che chở, thành chỗ núp an toàn cho bọn cán bộ Thành Đoàn Cộng Sản và bọn sinh viên Việt Cộng.

Hàng ngũ các giáo sư
Một số giáo sư có tinh thần Quốc Gia rõ rệt, đã tích cực yểm trợ công tác Ban A 17. Một số ít không thiên Cộng, nhưng lại đối lập hoặc chống chính quyền VNCH. Một số rất ít khác thì thiên tả hoặc thiên Cộng. Còn một số khá đông lại chọn làm kẻ đứng bên lề, mong được yên thân!
Tình hình sinh viên
Khá nhiều sinh viên thuần túy có thái độ dửng dưng, không ưa Cộng Sản, nhưng cũng không làm gì để chống lại chúng. Thậm chí có một số ít sinh viên bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng cấp tiến, xu hướng cách mạng và có mặc cảm “gia nô” nếu tỏ thái độ hoặc hành động ủng hộ chính quyền. Những sinh viên này rất dễ có khuynh hướng bỏ phiếu bầu cho liên danh gồm các sinh viên là cán bộ Thành Đoàn Cộng Sản. Tệ hơn cả, có một số nhỏ sinh viên nhẹ dạ, hoặc hiếu động đã a dua theo bọn sinh viên Việt Cộng.

5. Hoạt động của Ban A 17
Phá vỡ hệ thống nhân sự chìm và nổi của đối phương
Công tác này cần thực hiện 2 bước: Một là phát hiện các đối tượng một cách chính xác và kịp thời. Các cán bộ Ban A 17 là sinh viên, trường ốc, thầy cô và bạn bè sinh viên không xa lạ gì đối với họ. Vì thế, qua học tập, tiếp xúc, quan sát trực tiếp, hằng ngày, họ dễ dàng phát hiện các đối tượng là cán bộ Thành Đoàn Cộng Sản.
Việc phát hiện còn được thực hiện một cách chính xác bằng hoạt vụ xâm nhập vào hàng ngũ đối phương.
Khi đã thâu thập được tin tức cần thiết, các cơ quan có trách nhiệm phải thực hiện bước công tác kế tiếp là vô hiệu hóa các đối tượng.
Kết quả: Chỉ sau khoảng một năm hoạt động, các lực lượng an ninh đã bắt giữ được khá đông các cán bộ cốt cán của Thành Đoàn Cộng Sản, một số khác phải đào thoát ra các căn cứ Thành Đoàn ngoài bưng biền, số còn lại phải “lặn thật sâu”. Từ nay, không còn có cảnh những cán bộ Thành Đoàn Cộng Sản ngang nhiên, tự tung tự tác trong học đường, hay là ngay giữa Thủ Đô Sài Gòn như trước nữa.

     Giành quyền kiểm soát các tổ chức sinh viên công khai, hợp pháp

Sau khi phá vỡ hệ thống tổ chức của Thành Đoàn Cộng Sản, Lực Lượng Sinh Viên Quốc Gia cần giành lại các tổ chức sinh viên hợp pháp càng sớm càng tốt. Đây là điều kiện quan trọng thứ hai để có thể đạt được mục tiêu xóa bỏ tận gốc sự khống chế của Thành Đoàn Cộng Sản trong môi trường đại học.

Nhận thấy Thành Đoàn Cộng Sản dồn nỗ lực chính để giành quyền kiểm soát Đại Học Xá Minh Mạng, ban chấp hành Tổng Hội SVSG, ban đại diện sinh viên các phân khoa lớn: Luật Khoa (29716 sinh viên trong niên khóa 1973-74), Văn Khoa (20405 sinh viên trong niên khóa 1973-74) và Khoa Học (10738 sinh viên trong niên khóa 1973-74); do đó, để đối phó với Thành Đoàn Cộng Sản, Ban A 17 cũng thành lập các tổ công tác hoạt vụ bề thế hơn tại các trọng điểm kể trên.
Dù thế nào, nỗ lực chính yếu vẫn thuộc về Lực Lượng Sinh Viên Quốc Gia. Chính các sinh viên Quốc Gia bắt tay vào việc thành lập các liên danh ra tranh cử ban đại diện sinh viên tại các phân khoa và Tổng Hội SVSG.
Yêu cầu đặt ra là các liên danh của Lực Lượng Sinh Viên Quốc Gia phải thắng cử, cho nên Ban A 17 tìm phương cách san bằng mọi trở ngại để bảo đảm thắng lợi cho các liên danh mình ủng hộ. 
Chẳng hạn như nếu gặp trường hợp một vị khoa trưởng, một giáo sư hoặc một viên tổng thư kí văn phòng nhà trường lừng khừng, không tích cực hợp tác, Ban A 17 phải làm cho họ hợp tác hay ít ra là không làm gì cản trở sự thành công của liên danh tranh cử thuộc Lực Lượng Sinh Viên Quốc Gia.
Một khi đã ủng hộ một liên danh, Ban A 17 sẽ không muốn ủng hộ bất cứ liên danh ứng cử nào khác, dù đó là liên danh do một đảng phái đỡ đầu, thậm chí đó là liên danh gồm những sinh viên “gà nhà” của vị lãnh đạo số hai hay số ba nào đó.
Để tăng cường cho công tác của Ban A 17, bên Cảnh Sát Đặc Biệt đã điều về cho mỗi phân khoa một số thiếu úy Cảnh Sát vừa mới tốt nghiệp Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia. Các thiếu úy này còn rất trẻ, đã tốt nghiệp trung học, cho nên họ đều ghi danh để trở thành sinh viên tại các phân khoa đại học. Đây là sự phối hợp cần thiết và hữu hiệu. Thực ra, nếu Tướng Nguyễn Khắc Bình không kiêm nhiệm cả hai cơ quan to lớn này thì việc phối hợp hoạt động nêu trên không dễ mà có thể thực hiện được.
Ngoài các trọng điểm nêu trên, Ban A 17 cũng điều cán bộ tới Đại Học Vạn Hạnh, Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp (tên cũ là Nông, Lâm, Súc), Dược Khoa…Trước đó ít lâu, 3 trường này từng bị các cán bộ Thành Đoàn Cộng Sản khống chế, chúng đã biến những trường này thành cứ điểm xuất phát nhiều cuộc tranh đấu, xuống đường và tổ chức các buổi văn nghệ phản chiến, các cuộc họp báo…

6. Kết quả  
Sau một thời gian tương đối ngắn, các sinh viên khuynh hướng Quốc Gia đã giành lại được quyền kiểm soát những tổ chức sinh viên quan trọng, như:
Sinh viên Lý Bửu Lâm: Chủ tịch Tổng Hội SVSG niên khoá 1970-71, trưởng tràng Sinh Viên Kiến Trúc Đại Học Sài Gòn niên khoá 1969-1972,
Sinh viên Bửu Uy: Chủ tịch Tổng Hội SVSG niên khoá 1972-73, chủ tịch Ban Đại Diện Sinh Viên Văn Khoa Đại Học Sài Gòn niên khóa 1972-73,
Sinh viên Phạm Minh Cảnh: Chủ tịch Tổng Hội SVSG niên khoá 1973-4/1975, chủ tịch Ban Đại Diện Sinh Viên Khoa Học Đại Học Sài Gòn niên khoá 1973-74,
Sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật: Chủ tịch Ban Đại Diện Sinh Viên Luật Khoa Đại Học Sài Gòn niên khóa 1970 -71, phó chủ tịch Tổng Hội SVSG 1970-71,
Sinh viên Trương Văn Banh: Chủ tịch Ban Đại Diện Sinh Viên Luật Khoa Đại Học Sài Gòn niên khoá 1973-74,
Sinh viên Nguyễn Hữu Tâm: Chủ tịch Ban Đại Diện Sinh Viên Văn Khoa Đại Học Sài Gòn niên khoá 1973-74,
Sinh viên Phan Nhật TânChủ tịch Ban Đại Diện Sinh Viên Văn Khoa Đại Học Sài Gòn niên khóa 1974-75,
Sinh viên Khiếu Hữu Đồng: Chủ tịch Ban Đại Diện Sinh Viên Khoa Học Đại Học Sài Gòn niên khóa 1974-75…
Đại Học Xá Minh Mạng cũng có ban đại diện mới. Tất cả đều thuộc thành phần Quốc Gia.
Các cán bộ Thành Đoàn Cộng Sản cũng không dễ dàng lèo lái được Ban Đại Diện Sinh Viên Đại Học Vạn Hạnh và Đoàn Sinh Viên Phật Tử như trước nữa.
Nhờ những thành quả trên mà an ninh, trật tự tại các phân khoa Đại Học Sài Gòn được vãn hồi. Từ nay, đại học không còn là một mặt trận mà là môi trường an bình, thuận lợi cho việc học tập. Và cũng từ nay, các ban đại diện sinh viên có điều kiện phát huy các sinh hoạt học đường: Văn nghệ, báo chí, thể thao, du ngoạn, công tác xã hội, thăm viếng các chiến sĩ tiền đồn, các chiến sĩ trấn giữ hải đảo biên cương, lên án nghiêm khắc việc Việt Cộng pháo kích bừa bãi vào Trường Tiểu Học Cai Lậy, Tỉnh Định Tường và Trường Tiểu Học Song Phú, Quận Bình Minh, Tỉnh Vĩnh Long, giết hại hàng chục học sinh thơ ngây, vô tội… Đặc biệt, khi Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa vào đầu năm 1974, Tổng Hội SVSG và ban đại diện sinh viên các phân khoa thuộc Đại Học Sài Gòn đã đồng loạt ra Tuyên Cáo phản kháng mạnh mẽ hành động xâm lược của Trung Cộng trước công luận trong và ngoài nước, đồng thời tố cáo sự im lặng hèn hạ của Cộng Sản Hà Nội.
Đại học yên ổn thì phố xá cũng được tấp nập, an vui.
Đây là thắng lợi chung, chẳng những của Lực Lượng Sinh Viên Quốc Gia mà còn là của Ban A 17 và của Cảnh Sát Đô Thành. Thắng lợi tại Mặt Trận Đại Học là thắng lợi lớn, dứt điểm. Tình hình đại học yên tĩnh cho tới “ngày sập trời” 30-4-1975. Chính những cán bộ Thành Đoàn Cộng Sản cũng phải công nhận họ đã thất bại trong Mặt Trận Đại Học. Hàng Chức Nguyên viết: “…từ năm 1972, địch đã ra tay khủng bố, càn quét, hòng đè bẹp các phong trào đấu tranh. Hầu hết những trụ sở tập họp công khai của thanh niên, sinh viên, học sinh đều bị chúng phá hủy hoặc chiếm đóng…Tình hình im ắng, căng thẳng, không một cuộc đấu tranh công khai lớn nhỏ nào nổ ra được” (Hàng Chức Nguyên. Trui Rèn Trong Lửa Đỏ. NXB. Trẻ, 2005. Trang 186).

IV.     Vài nhận xét
Về đối thủ
Trước khi Ban A 17 nhập cuộc, bọn sinh viên Việt Cộng hung hăng trong nhà trường, tác oai tác quái ngoài đường phố, vì biết có nhiều viên chức “tai to mặt lớn” hưởng bổng lộc VNCH và nhiều thành phần khác nữa trong xã hội, sẽ nhân danh các quyền Hiến định, mau mắn đứng ra bênh vực, chống lưng cho chúng. Nhưng từ khi Ban A 17 lâm trận, nhiều tên sinh viên Việt Cộng bị “hốt” với đầy đủ bằng chứng có giá trị pháp lí xác minh chúng là cán bộ Cộng Sản, cho nên không “ô dù” nào có thể che chở cho chúng được nữa, chúng đành phải nhũn như con chi chi. Có một số sẵn sàng hợp tác. Những tay ngoan cố, chỉ đếm được vài ba.
Về công tác Ban A 17

Từ cuối năm 1971, Ban A 17 xuất hiện với một lực lượng có trình độ đại học và trên đại học, rất thích hợp cho Mặt Trận Đại Học. Tất cả hoạt động dưới sự lãnh đạo của Ông Nguyễn Thành Long, một cấp chỉ huy kiệt xuất. Phải nhìn nhận đây là quyết định sáng suốt và đúng đắn của Tướng Nguyễn Khắc Bình. Ban A 17 nhắm đánh tận gốc phong trào sinh viên tranh đấu do Thành Đoàn Cộng Sản lèo lái. Khi phá vỡ được hệ thống tổ chức của Thành Đoàn Cộng sản và giành lại được các ban đại diện sinh viên tức là đã nhổ được cái gốc của phong trào tranh đấu thì tự khắc tình hình đại học trở lại yên tĩnh.
Ban A 17 phải “ra quân” trong tình hình không thuận lợi: Phải đối phó với một đối phương sừng sỏ, lại gặp phải thái độ cam chịu của nhiều giáo sư và sinh viên. Song nhờ tất cả cán bộ Ban A 17 đều có trình độ học vấn thích hợp, cộng với sự hi sinh, tinh thần kỉ luật, Ban A 17 đã vượt qua được các trở ngại, khó khăn và đã gặt hái thành công khá tốt đẹp.
Thắng lợi trong Mặt Trận Đại Học đưa tới kết luận: Cộng Sản không quá ghê gớm. Người xưa nói “Biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng”; ở đây, Ban A 17 chẳng những có khả năng biết rõ đối phương, lại còn biết cách đánh thắng đối phương, cho nên đã thắng nhanh và thắng triệt để.
Cảm tưởng khi nhìn lại

Ban A 17 tự hào vì đã sát cánh cùng quân dân cán chánh VNCH chiến đấu bảo vệ miền Nam tự do. VNCH có chính nghĩa vì đã buộc phải chiến đấu để tự vệ. VNCH chưa phải là toàn bích vì là một nước non trẻ, lại phải vừa xây dựng vừa phải chiến đấu sống còn với Cộng Sản Hà Nội, nhưng không có thể phủ nhận VNCH đã xây dựng được nền móng căn bản cho một quốc gia tự do, dân chủ, nhân bản, khai phóng. 
Bọn sinh viên theo Việt Cộng khoe khoang làm “cách mạng đánh cho Mĩ cút, dánh cho Ngụy nhào”. Thực ra, người Mĩ tham chiến nhiều lần nhiều nơi trên thế giới, xong việc của họ rồi thì họ ra đi, không lấy một tấc đất. Trường hợp chiến tranh ở Việt Nam, người Mĩ vừa ra đi, Cộng Sản Hà Nội vội rước Tầu Cộng vào. Hậu quả nhãn tiền là Cộng Sản Hà Nội vừa phải cắt đất cắt biển dâng cho Tầu để “trả nợ” cho chúng và để được chúng bảo vệ lợi quyền, vừa phải làm ngơ cho chúng tràn vào làm ăn sinh sống và chắc chắn không bào giờ chúng ra đi nữa. Đang khi đó, “Ngụy nhào” rồi thì tất cả những cái gì tốt đẹp VNCH đã xây dựng được trong 20 năm đều bị xóa bỏ, tất cả những cái xấu xa về mọi mặt phát sinh ở mức độ khủng khiếp. 
Nếu cách mạng là đánh đổ một chế độ, một chính quyền không tốt để xây dựng một chế độ, một chính quyền tốt hơn thì Việt Cộng không làm cách mạng bởi vì chúng đã đánh đổ một chế độ, một chính quyền tốt hơn để dựng lên một chế độ, một chính quyền cực kì tệ hại. Những gì xẩy ra trên đất nước từ 30-4-1975 cho tới nay chứng minh Việt Cộng là phản động, là phá hoại, là bán nước hại dân. Thế mà ngày xưa, bọn sinh viên Việt Cộng lại hoạt động chống phá VNCH để tiếp tay cho Cộng Sản Hà Nội độc tài, toàn trị chiếm đoạt miền Nam tự do. Tội đó không phải là nhỏ.
Giải thích như thế để chứng minh cuộc chiến đấu chống bọn sinh viên Việt Cộng là chính nghĩa, là bổn phận, là vinh dự của Ban A 17. Ban A 17 không hại thầy phản bạn, Ban A 17 chỉ hoạt động quét sạch bọn sinh viên Việt Cộng ra khỏi học đường.
Ban A 17 đã nhập trận, đã so găng bằng những đòn cân não gay go, nhưng không kém phần gian nan, nguy hiểm và đã chiến thắng. Tuy kết cục Miền Nam đã mất vào tay Cộng Sản Bắc Việt, bởi vì chúng ta thua ở những mặt trận quan trọng khác, nhưng Ban A 17 vẫn cảm thấy một chút an lòng vì đã tích cực góp phần đánh thắng Mặt Trận Đại Học, đã làm tròn nhiệm vụ mà Quốc Gia giao phó.
Tháng 6-2013
Bạch Diện Thư Sinh

(Trích từ cuốn sách MẶT TRẬN ĐẠI HỌC THỜI VIỆT NAM CỘNG HÒA của Bạch Diện Thư Sinh. Tủ sách Hoàng Sa, 2014)


Bài liên quan:












Lao Pho laopho@gmail.com

3:53 PM (5 minutes ago)
to Vinh
Anh Vinh, 
Lâu không liên lạc, hy vọng dạo này anh vẫn khỏe
Bà HLC gởi bài về A17 rất hấp dẫn, thế nào cũng gây sóc cho nhiều người. Tôi biết 1 vài csv Luật quậy, lúc cuối 75 nắm BCH CSQG ĐôThành thay thế tướng Trang Sĩ Tấn. Một Ông nữa cũng là tay quậy ở Đại Học Minh Mạng bò lên chức Giám Đốc tại Bộ KT, lúc mất nước ở lại, do nhu cầu cải tổ để được hội nhập được chính quyền được  CS cho bò đến chức Phó Khoa Trưởng Đại Học Luật Khoa!
Hôm nào rảnh minh gọi đt chat 1 tý cho vui.